TRẦN TỬ NGANG 陳 子 昂
(661-702), thời Sơ
Đường
登 幽 州 臺 歌
前 不 見 古 人後 不 見 來 者
念 天 地 之 悠 悠
獨 愴 然 而 涕 下
Phiên âm
ĐĂNG U CHÂU ĐÀI CA
Tiền
bất kiến cổ nhân
Hậu bất kiến lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc sảng nhiên nhi thế há
Hậu bất kiến lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc sảng nhiên nhi thế há
Dịch nghĩa
Bài ca lúc lên đài U Châu
Phía trước không thấy người xưa
Phía sau không thấy ai đến
Ta nghĩ rằng trời đất rộng lớn mênh mông
Chỉ riêng ta đau lòng rơi lệ.
Phía sau không thấy ai đến
Ta nghĩ rằng trời đất rộng lớn mênh mông
Chỉ riêng ta đau lòng rơi lệ.
DỊCH THƠ
BÀI CA LÊN ĐÀI U CHÂU
Nhìn trước người xưa đã mất rồi
Trông sau buồn chỉ thấy lẻ loi
Nào hay trời đất mênh mông quá
Một mình hiu quạnh mặc lệ rơi.
NGUYỄN AN BÌNH
_________________________________________________________
*Trần
Tử Ngang là người Xạ Hồng, Tử Châu (nay
là huyện Xạ Hồng, thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc). Xuất thân trong một gia đình
hào phú lâu đời, hồi trẻ, ông chỉ ham học võ nghệ, săn
bắn và đánh bạc ; đến năm 17, 18 tuổi, ông mới chuyên tâm học và đọc sách.
Năm 684,
ông thi đỗ Tiến sĩ lúc 23 tuổi, được Võ hậu (tức Võ Tắc Thiên)
khen ngợi [1], cho làm chức Chính tự (chức quan
ở phòng bí thư) ở Lân Đài, sau thăng làm Hữu Thập di (có sách đề là Tả Thập di,
nên ông còn được gọi là Trần Thập Di).
Năm
26 tuổi, ông tham gia quân đội của Kiều
Tri Chi, từng đến biên thùy phía Tây Bắc.
Năm
35 tuổi, ông làm tham mưu cho Kiến An vương Võ Du Nghi, theo quân đi chinh
Đông, đánh quân Khiết Đan. Võ Du Nghi không có mưu lược,
quân đi tiên phong đại bại, mấy lần Trần Tử Ngang hiến kế cho Võ Du Nghi, và
hăng hái xin cầm quân ra trận; nhưng không được nghe theo, mà ngược lại còn bị
chủ tướng trút giận lên đầu ông, hạ chức ông từ tham mưu xuống làm quân tào.
Bất
đắc chí, năm 38 tuổi, ông lấy cớ cha già, xin từ chức về quê.
Năm 702,
huyện lệnh huyện Xạ Hồng là Đoàn Giản, vì nghe lời xui giục của Tể tướng Võ Tam Tư (cháu Võ Hậu) nên đã hại
chết Trần Tử Ngang. Năm đó, ông 41 tuổi .
Tác
phẩm của ông có Trần thập di tập (Tập thơ thu thập những
phần còn sót lại của họ Trần), trong đó có khoảng 120 bài thơ.
Theo
Dịch Quân Tả, thì Trần Tử Ngang là người có "tình tình hào hiệp,
trọng nghĩa khinh tài, ưa giúp người, và rất chân thật với bạn bè" .
Thời
Sơ Đường, văn học còn
chịu ảnh hưởng văn trào "diễm lệ" đời Lục triều. Thấy lối văn ấy ưa "ủy mị,
đồi phế", "lộng lẫy, đẹp đẽ quá mà tuyệt nhiên không gửi gắm điều
gì" (chữ của Trần Tử Ngang), trong hoàn cảnh đó, Trần Tử Ngang đã đề xướng
ra lối văn có tinh thần "phong nhã" và "phong cốt Hán-Ngụy" (tức thời Kiến An)[4], bao hàm một nội dung tư tưởng
lành mạnh, cứng cỏi. Ông nói: "Văn chương sa vào cái tệ đã 500 năm
rồi, phong khí của Hán, Ngụy không truyền lại Tấn, Tống... Tôi, những lúc nhàn, đọc thơ Tề, Lương, lời thì rất đẹp mà tình ý đều không
có, lần nào cũng thở dài". Bởi vậy, ông ra sức cổ súy cho phong trào
"phục cổ"[5], để rồi Lý Bạch, Đỗ Phủ, Hàn Dũ và Liễu Tông Nguyên là
những người tiếp thu, phát triển làm cho phong trào ấy trở nên mạnh mẽ trong
thời Thịnh Đường...[6].
Từ
chủ trương ấy, ông đã làm được một số bài thơ ưu tú, xây dựng được một phong
cách thơ có nội dung, có hình tượng, lành mạnh, chất phác,...chứng minh lý luận
ấy là đúng đắn và có sức sống. Đặc biệt là 38 bài "Cảm ngộ" (Cảm
cánh gặp gỡ), mượn xưa ví nay, nói lên hoài bão của mình, hoặc nhờ cảnh gửi
tình, vạch trần và châm biếm hiện thực, hoặc trực tiếp phản ánh hiện thực. Bài
thì đả kích Võ Hậu xây chùa tạc tượng, phung phí tiền của mà "không cứu
giúp dân đen" (bài 19), bài thì phơi trần cuộc chiến tranh phi nghĩa (đánh
Sinh Khương), mang tai vạ đến cho binh lính và dân lành (bài 29).
Bên
cạnh đó, ông cũng có một số bài hoài cổ (như bài "Bạch Đế hoài cổ" [Ở
thành Bạch Đế nhớ chuyện xưa], "Kế khâu lãm cổ" [Lên gò Kế xem
cảnh năm xưa]) và đề tặng khi ly biệt (như bài "Xuân dạ biệt hữu
nhân" [Ngày xuân tiễn bạn])...
Nhìn
chung, ông là người có khả năng và cao vọng lớn nhưng không được trọng dụng,
nên đã trút nỗi bất bình và buồn chán trong hàng loạt bài thơ.
Về
hình thức, thơ ông kế thừa truyền thống "cổ thi ngũ ngôn" ở
thời Hán-Ngụy . Bề ngoài, có vẻ "phục
cổ", nhưng bản chất lại là "cách tân", dù sự cách tân đó còn
nhiều hạn chế [8].
Nói
về công lao của ông trong lãnh vực văn học, nhiều nhà nghiên cứu đã đồng ý
rằng Trần Tử Ngang là một nhà thơ có vị trí nhất định trong thi đàn đời Đường [8]. Và với công lao "vừa phá
vừa xây" của ông, ông xứng đáng được xem là người mở đường cho thơ ca
đời Đường phát
triển [9].
Giai thoại
Khi
Trần Tử Ngang mới đến kinh thành Trường An, ít người biết đến tên tuổi ông.
Để gây sự chú ý, ông đã mua một cái cây đàn Hồ cầm ở giữa chợ với giá rất cao,
rồi mời mọi người đến nơi ở để xem ông biểu diễn vào sáng hôm sau. Đúng hẹn,
khi mọi người đã tụ tập đông đảo, ông nói: "Người đất Thục là Trần
Tử Ngang có trăm quyển văn, rong ruỗi đến kinh sư, thế mà vẫn lẫn lộn trong
chốn bụi trần, chưa được người đời biết đến. Nhạc khí này chỉ là công cụ của kẻ
thợ hèn, há đáng lưu tâm!". Nói xong, ông bèn đập vỡ cây đàn và mang
sách ra tặng mọi người. Chỉ trong một ngày mà tiếng tăm ông vang dội chốn kinh
thành .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét