CHÚC MỪNG NĂM MỚI 2021
Thứ Năm, 31 tháng 12, 2020
TẢN MẠN NGÀY CUỐI NĂM
TẢN MẠN NGÀY CUỐI NĂM
Nhẹ tênh tờ lịch cuối cùng
Năm tàn tháng lụn ngập ngừng vừa rơi
Bóng thời gian khép lại rồi
Có chăng còn lại phận người đa đoan.
Quẩn quanh sợi khói nhang tàn
Người đi còn thoảng hương trầm đâu đây
Ơn đời biết có trót vay
Mùa sau còn đợi một ngày trổ hoa.
Nhẹ tênh ngọn cỏ quê nhà
Nhủ lòng sáo có về qua sông dài
Tha từng sợi nắng vàng phai
Chút lòng thơm thảo ủ hoài hương xưa.
Rêu phong mái ngói ngày mưa
Giữa bao dâu bể nhặt thưa tiếng đàn
Chim quyên lẻ bạn lên ngàn
Ngủ quên dưới cội hoa vàng ngày xuân.
Nhẹ tênh dòng nước cuối năm
Vô tình cá lội biệt tăm phương nào
Suối nguồn bóng hạc bay cao
Chợt đau dấu ngựa bạc đầu trong sương.
31/12/2020
CA KHÚC PHỔ THƠ MỚI CHIA TAY EM, CƠN MƯA PHÙN ĐÀ LẠT
CA KHÚC PHỔ THƠ MỚI
CHIA TAY EM, CƠN MƯA PHÙN ĐÀ LẠT
Ý thơ NGUYỄN AN BÌNH, pjoor thành ca khúc nhạc sĩ MỘC THIÊNG.
ần đầu tiên một bài thơ tự do dài được nhạc sĩ Mộc Thiêng chọn, chắt lọc lại nội dung, từ ngữ để biến thành ca từ cho một ca khúc. Cám ơn người nhạc sĩ đã chịu khó viết thành ca khúc trong sự đồng cảm vói tác giả. Mời các bạn nghe melody ở đây:
CHIA TAY EM, CƠN MƯA PHÙN ĐÀ LẠT
Rồi cũng qua đi tháng mười hai lạnh giá
Tôi chia tay cơn mưa phùn ngày cuối
năm
Chia tay cái dáng co ro rét căm căm
Chia tay những sợi tơ giăng qua hồn người màu xám
Nhìn ngọn gió cuốn đi từng chiếc lá kim bay mất
Lặng
lẽ hàng thông gầy guộc ẩm ướt trên đồi cao
Con
đường quanh co không biết đưa tôi đến một nơi nào
Dốc
lên cao lại xuống thấp biết điểm nào dừng
em nhỉ
Mưa thành hạt pha lê long lanh trên mái vòm cũ kỷ
Trên chiếc khăn quàng quấn cổ và trên mái tóc dài của em
Tôi
thấy em rất xa như làn sương mỏng êm đềm
Bồng bềnh thành đám mây trời trôi về vô
định
Lấp xấp có tiếng than van trên mái nhà cổ kính
Phải
chăng là khúc hát buồn bã của một loài
chim không tên
Đâu
đó tiếng ngân nhà thờ một ngày trước giáng sinh
Khi em về ngang qua sau thánh lễ
tan rất muộn.
Từ
ô cửa trọ tôi nhìn xuống mặt hồ
Bất chợt nhận ra con sóng thật cô đơn
Con
sóng lao đao đi giữa chợ đời, đi giữa dòng người vội vã
Con
sóng mộng du trên từng con dốc dài, trong từng giấc
mơ nghiệt ngã
Chia tay em, tôi chia tay cơn mưa phùn
Ôi những cơn mưa phùn không thể nào quên
Như ta chia tay một năm cũ sắp đi qua vậy mà
Mai chỉ còn là nỗi nhớ in trong từng con phố
Mai chỉ còn là rong rêu trên ngôi nhà cổ
Những con dốc một thời em đã đi qua
Cố
giấu nỗi buồn và tiếng thở dài xa ngái
Tôi
gởi lại núi đồi những buổi chiều mê ngủ
Dây
hoa móng rồng xanh níu chân khách lữ
Có
mấy bậc thang rêu phong của từng con dốc
Không tìm thấy người thiếu phụ đi tìm bông hoa
Mang tên hạnh phúc cho cuộc đời mình
Mỗi người chúng ta đều giữ
trong lòng một ước mơ thầm kín
Ngát hương của một thời tuổi trẻ
Tôi sẽ chẳng còn gặp em ở bất cứ đâu bất
cứ nơi nào
Trong một Đà Lạt khói sương trùng trùng mộng dữ
Niềm đau hạnh ngộ sẽ không dành cho một ai
Trong
hai chúng ta khi thời gian
Viễn
du vào không gian đầy huyễn hoặc
Chia
tay cơn mưa phùn Đà Lạt
Chia
tay em nhé.
Thứ Ba, 29 tháng 12, 2020
CHIA TAY EM, CƠN MƯA PHÙN ĐÀ LẠT
CHIA TAY EM, CƠN MƯA PHÙN ĐÀ LẠT
Tôi chia tay cơn mưa phùn ngày cuối
năm
Chia tay cái dáng co ro rét căm căm
Chia tay những sợi tơ giăng qua hồn người màu xám
Nhìn ngọn gió cuốn đi từng chiếc lá kim bay mất
Lặng
lẽ hàng thông gầy guộc ẩm ướt trên đồi cao
Con
đường quanh co không biết đưa tôi đến một nơi nào
Dốc
lên cao lại xuống thấp biết điểm nào dừng
em nhỉ
Mưa thành hạt pha lê long lanh trên mái vòm cũ kỷ
Trên chiếc khăn quàng quấn cổ và trên mái tóc dài của em
Tôi
thấy em rất xa như làn sương mỏng êm đềm
Bồng bềnh thành đám mây trời trôi về vô
định
Lấp xấp có tiếng than van trên mái nhà cổ kính
Phải
chăng là khúc hát buồn bã của một loài
chim không tên
Đâu
đó tiếng ngân nhà thờ một ngày trước giáng sinh
Khi em về ngang qua sau thánh lễ
tan rất muộn.
Từ
ô cửa trọ tôi nhìn xuống mặt hồ
Bất chợt nhận ra con sóng thật cô đơn
Con
sóng lao đao đi giữa chợ đời, đi giữa dòng người vội vã
Con
sóng mộng du trên từng con dốc dài, trong từng giấc
mơ nghiệt ngã
Chia tay em, tôi chia tay cơn mưa phùn
Ôi những cơn mưa phùn không thể nào quên
Như ta chia tay một năm cũ sắp đi qua vậy mà
Mai chỉ còn là nỗi nhớ in trong từng con phố
Mai chỉ còn là rong rêu trên ngôi nhà cổ
Những con dốc một thời em đã đi qua
Cố
giấu nỗi buồn và tiếng thở dài xa ngái
Tôi
gởi lại núi đồi những buổi chiều mê ngủ
Dây
hoa móng rồng xanh níu chân khách lữ
Có
mấy bậc thang rêu phong của từng con dốc
Không tìm thấy người thiếu phụ đi tìm bông hoa
Mang tên hạnh phúc cho cuộc đời mình
Mỗi người chúng ta đều giữ
trong lòng một ước mơ thầm kín
Ngát hương của một thời tuổi trẻ
Tôi sẽ chẳng còn gặp em ở bất cứ đâu bất
cứ nơi nào
Trong một Đà Lạt khói sương trùng trùng mộng dữ
Niềm đau hạnh ngộ sẽ không dành cho một ai
Trong
hai chúng ta khi thời gian
Viễn
du vào không gian đầy huyễn hoặc
Chia
tay cơn mưa phùn Đà Lạt
Chia
tay em nhé.
NỖI NIỀM CÙNG TẬP THƠ “MÂY TRẮNG PHÍA NHÀ” CỦA CỐ NHÀ THƠ TRÚC THANH TÂM
NỖI NIỀM CÙNG TẬP THƠ “MÂY TRẮNG PHÍA NHÀ” CỦA CỐ NHÀ THƠ TRÚC THANH TÂM
Những ngày cuối tháng 12/2020 tôi nhận được
tập thơ “Mây TRẮNG SAU NHÀ” của cố nhà thơ Trúc Thanh Tâm do bạn Nguyễn Đức Phú
Thọ, phân hội trưởng văn học của An Giang gởi tặng. Theo Phú Thọ đây là tập thơ
được Liên Hiệp Các Hội Văn Học Nghệ Thuật An Giang tài trợ kinh phí chọn in từ các
tập bản thảo cá nhân hoặc chưa xuất bản do
chị Thanh Mai vợ nhà thơ Trúc Thanh Tâm lưu giữ.
Nhận được tập thơ tôi rất vui nhưng cũng không
khỏi bùi ngùi. Tôi và nhà thơ Trúc Thanh Tâm quen nhau từ hơn nửa thế kỷ trước khi
anh còn ở Cần Thơ, lúc đó anh cùng Trần Duy Cang hoạt động trong thi văn đoàn Trăng
Nguyên Thủy, còn tôi cùng Thạch Long hoạt động trong nhóm Tình Thơ. Tuy hoạt động
trong hai nhóm thơ văn khác nhau nhưng chúng tôi chơi với nhau khá thân. Có một
thời gian chúng tôi định sát nhập 2 nhóm lại với tên mới là Văn Nghệ Cần Thơ nhưng
không thành vì thời cuộc và điều kiện sinh hoạt khá khác biệt. Một thời gian sau
năm 1975 anh chuyển về Châu Đốc và hoạt động văn nghệ ở đó. Tôi lang thang dạy học
xứ người hơn 5 năm rồi cũng quay về Cần Thơ sinh sống, viết lại sau một thời
gian dài ngừng bút. Xin gởi đến các bạn bài viết của tôi về thơ Trúc Thanh Tâm viết từ 7 năm trước khi anh còn sống.
TRÚC THANH TÂM - TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG
TRONG NHỮNG BÀI THƠ THỜI CHIẾN
*
Nguyễn An Bình
PHẢI GẦN 38 NĂM SAU tôi mới có dịp
gặp lại Trúc Thanh Tâm, mặc dù có thời gian khá dài chúng tôi ở cùng chung một
thành phố, nhà của Trúc Thanh Tâm cũng không xa nhà tôi mấy ( tôi ở đường Lý
Thái Tổ còn anh ở đường Quang Trung, nơi đây có Sân vận động, thường có những
chiếc trực thăng đáp xuống để chuyển thương... ). Sau hòa bình 15 năm, anh về
Châu Đốc định cư hẳn.
Được gặp lại
anh, trong một ngày xuân ấm áp ở quê nhà, bên mấy ly bia và một dĩa khô nhỏ bên
con rạch Cái Khế nhìn ra ngoài sông gió thổi lồng lộng với dãy đèn đêm vàng hực
in hình trên bóng nước lấp loáng mới cảm nhận hết được thời gian trôi qua nhanh
như một giấc
mộng.
Người xưa thường nói “Bóng câu
cửa sổ”, ngày trước đi học được thầy giảng dạy cho hiểu nhưng cũng không thật
để tâm lắm đến ý nghĩa sâu xa của nó, bây giờ mới thật thấm thía “đời có bao
lâu mà hững hờ”. Hai anh em ôn lại thời còn làm văn nghệ trước 1975, hỏi thăm
nhau bạn bè văn nghệ xưa ai còn ai mất mà cảm xúc khôn nguôi.
Gặp lại Trúc Thanh Tâm, có
dịp đọc lại thơ anh trên các trang mạng cảm giác đầu tiên của tôi là anh vẫn
giữ được những tình cảm chân thật, sâu lắng và có thể nói là vẫn thủy chung,
tha thiết với tình yêu quê hương, với những kỷ niệm một thời đi học và những
mối tình đâu đó chợt đi qua trong tâm hồn nhà thơ, có điều nó đã được nâng lên
ở một cấp độ cao hơn, tinh tế hơn và cũng thật hơn. Thơ anh viết gần như tự
nhiên, gần gũi với cuộc sống, những câu thơ viết cho bạn bè, người thân, và cho
những người tình không quen biết đều thấm đượm sự chân tình, giàu cảm xúc hình
ảnh, xen lẩn những lời thơ hóm hỉnh đáng yêu, đời thường không cường điệu,
chính vì thế làm cho người đọc thơ anh cảm thấy thích thú như thấy trong bài
thơ anh đâu đó có mình trong đó. Tôi có đọc một số comment của một số độc giả
trẻ trên blogs Trăng Nguyên Thủy của anh bày tỏ sự ái mộ và có bạn lại hỏi khéo
nhà thơ chừng nào in thơ để được đăng ký là một trong những người ủng hộ đầu
tiên thì cũng đủ thấy thơ Trúc Thanh Tâm đã thật sự có chỗ đứng vững vàng trong
lòng người yêu thơ.
Chẳng hạn như trong bài "Ví Dụ" có những câu
thơ làm người đọc bật cười trước lời tỏ tình như một ví dụ ướm thử để khỏi đau
lòng, bất ngờ khi bị người đẹp từ chối và sự trả lời rất ngây thơ nhưng cũng
rất chân thật dễ thương trước một thực tế khá phũ phàng của cuộc sống:
Cứ là ví dụ, vợ chồng
Đừng nghe thiên hạ dối lòng, bán mua
Nhỏ cười chúm chím, mây mưa
Sống cùng thi sĩ vẽ bùa, ăn thơ.
Một bài thơ khác “Chuyện cổ tích” mà anh ký tặng tôi
khi anh về Cần Thơ mới đây cuối tháng 9 vừa rồi, khi ngồi cùng nhau bên tiệc
rượu nhỏ: anh, tôi, Trần Duy Cang đã cùng ôn lại những kỷ niệm làm văn nghệ
thời đó, cũng có những đoạn thơ đáng yêu như thế:
Trệt đất xuống cho mát trời ông địa
Nước mắt quê hương uống thét phát ghiền
Mấy thằng nam đừng chơi gian lận
Lót long đền, phái nữ họ ghen !
Món dân dã, lai rai tới bến
Đâu ở đâu, lại giống xứ mình
Trước khi chết còn xuống câu vọng cổ
Bạn ta cười, vỗ vế, y kinh !
Và rồi anh cũng nhận ra cuộc đời vốn
dĩ cũng chỉ là phù du, ngắn ngủi thì chúng ta hãy xem như là một “Chuyện cổ
tích”, có lẽ Trúc Thanh Tâm muốn thế và anh cũng mong bạn bè anh nghĩ thế.
Mấy chục năm, biết trên biết dưới
Có chìm xuồng cũng hú hí cho vui
Hương một thuở nghe còn thơm phức
Nhằm nhò gì, chuyện cổ tích, trời ơi !
Nhưng
ở đây tôi muốn nhắc đến thơ anh ở một bình diện khác: Một Trúc Thanh Tâm với
nỗi khắc khoải khôn nguôi về tình yêu quê hương trong những bài thơ thời chiến
trước 1975.
Thời ấy chúng tôi yêu văn nghệ, thích làm thơ viết văn
và tự tìm đến nhau một cách vô tư, trong veo không vướng bận những ganh đua vẩn
tục thường tình. Anh lớn hơn tôi mấy tuổi, khi tôi bước vào giảng đường đại học
thì anh đã là người lính trong thời chiến nhưng không vì thế giữa chúng tôi có
sự ngăn cách. Tôi không nhớ quen anh từ lúc nào nhưng có lẽ từ lúc gặp nhau
trong buổi ra mắt tập thơ Như Lá Me Sầu của Mặc Uyên Thi (tên thật Trương Chí
Tiến, sau nầy là giảng viên Đại Học Cần Thơ) ở một quán cà phê bên đường Mạc Tử
Sanh khoảng năm 69-70 gì đó. Lúc ấy anh cùng với Mặc Uyên Thi lập nhóm Hoa Thời
Gian và hoạt động khá đều trên báo chí, sau đó không lâu anh hợp nhất với Trần
Duy Cang ( còn có bút danh Nguyên Thy Hồng), Trần Hòa Nhã và Hoàng Linh Trung
thành lập Thi văn đoàn Trăng Nguyên Thủy. Đây có lẽ là thời kỳ Trăng Nguyên
Thủy hoạt động sôi nổi nhất, lúc ấy anh có gởi tặng tập thơ của nhóm, qui tụ
thêm được một số bạn thơ sinh viên như Lê Vũ Hùng, Nguyễn Thanh Hùng, Hồ Ngọc
Ẩn, Bùi Thị Sại...Từ Trăng Nguyên Thủy, ít lâu sau Trúc Thanh Tâm và Trần Duy
Cang thành lập Văn nghệ Cần Thơ, tới cuối năm 1974 thì mất dấu.
Rất tiếc sau năm 1975 những tập thơ ấy tôi không
còn giữ được ( có lẽ bạn bè cũng không còn ). Tuy không hoạt động văn nghệ
chung nhóm với anh nhưng chúng tôi vẫn chơi với nhau thật thân tình, gần gũi.
Còn nhớ thời kỳ ấy văn nghệ miền Tây phát triển một cách tự phát nhưng không gì
thế mà không có sự gắn kết với nhau.
Ở Vĩnh Long có Thi văn đoàn Áng
Thơ Đêm của Trần Mộng Hoàng, Mỹ Tho có Văn nghệ Mây Đỉnh Cao của Thanh Uyên
Vũ…, chúng tôi đều có liên hệ, trao đổi. Làm sao quên được những kỷ niệm một
thời làm văn nghệ thuở ấy, lúc Trần Mộng Hoàng ra mắt tạp chí Tham Dự số 1
khoảng năm 70, tôi cùng Trúc Thanh Tâm, Trần Duy Cang, Lê Vũ Hùng ( sau nầy là
thứ trưởng Bộ Giáo Dục-Đào Tạo - đã mất) đã qua dự, chúng tôi có dịp quen thêm
các nhà văn nhà thơ như Việt Chung Tử, Mai Trúc Linh….
Còn nhớ giữa trưa nắng chói chang,
chúng tôi với hai chiếc Honda cà tàng đến Tam Bình thăm Mai Trúc Linh ( lúc bấy
giờ đang là phó quận ). Con đường vào quận vắng vẻ, ruộng đồng xác xơ mà ai
cũng biết là không nên qua lại sau 5,6 giờ chiều vì có thể một viên đạn lạc nào
đó găm vào mình và mãi mãi ta không biết viên đạn đó xuất phát từ đâu, bên nầy
hay bên kia. Chiến tranh thời ấy khốc liệt như vậy. Nói như thế để thấy được
niềm say mê gặp gỡ, giao lưu Văn nghệ của chúng tôi lúc ấy mạnh mẽ như thế nào.
Chúng tôi cũng thường đọc thơ nhau
khi bài được đăng trên báo. Ở Trúc Thanh Tâm tôi nhớ nhất là những bài thơ của
anh đăng trên nhật báo Tin Sáng lúc bấy giờ. Phải nói rõ thêm nhật báo Tin Sáng
thời ấy là một tờ báo đối lập với chính quyền Sài Gòn, do dân biểu Ngô Công Đức
đứng tên, tôi và anh đều có bài cộng tác ở trang Thơ Thời Chiến do dân biểu
Kiều Mộng Thu phụ trách. Thơ anh xuất hiện khá đều đặn. Điều đó cũng dễ hiểu,
bấy giờ anh là nhà thơ mặc áo lính nên không khí, hơi thở chiến tranh, tình yêu
quê hương và những nỗi xót xa trước cuộc chiến được anh tiếp cận, thể hiện khá
rõ nét.
Mặc dù lúc ấy tôi đã vào đại học ,
thường làm thơ tình học trò nhiều hơn là những loại thơ khác, nên thơ chưa cảm
nhận gì nhiều về sự khốc liệt của chiến tranh nhưng tôi lại thích đọc thơ của
những nhà thơ mặc áo lính lúc bấy giờ như Du Tử Lê, Trần Hoài Thư, Luân Hoán,
Trần Dzạ Lữ, Hồ Chí Bửu, Phù Hư, Kim Tuấn… nên sau nầy tôi có dịp so sánh thơ
anh gần gũi với thơ Kim Tuấn hơn cả. Sự khốc liệt, trần trụi, tàn nhẫn đôi khi
tuyệt vọng trước một cuộc chiến mà hai tiếng hòa bình hình như còn quá xa vời
thể hiện rõ nét ở thơ của Hồ Chí Bửu, Trần Dzạ Lữ, Du Tử Lê; nhuốm màu quan tái
như các bài Ngậm thẻ qua sông, Đồn sơn yểm, Quân bộ khúc của Phù Hư; cao ngạo
ngang tàng coi đó như trò đùa của con tạo, rong chơi cùng vũ khí như trong thơ
của Luân Hoán. Ở thơ Kim Tuấn nhất là những bài thơ khi ông còn là lính đồn trú
ở Pleiku, nỗi xót xa về cuộc chiến như một vết sẹo đau buồn không tránh được nó
phảng phất ăn sâu vào tâm hồn nhà thơ:
Tôi đã đi qua bao nhiêu xóm làng
Trong thời chiến tranh mấy lần xuôi ngược
Lửa đỏ đồng hoang người chết bên đường
Máu thẩm bên bờ ruộng đất quê hương
Tháng giá mùa đông không còn áo mặc
...
Tôi đã đi qua bao nhiêu xóm làng
Câu chuyện mười năm buồn như cắt ruột
Lửa ngày xưa cháy quê hương.
(Kim Tuấn - Lửa đỏ mười năm)
Thì
ở trong thơ Trúc Thanh Tâm cuộc chiến cũng đồng nghĩa với chết chóc, với đau
thương, mất mát không có gì có thể bù đắp,thay thế được:
Như Việt Nam nầy ngày tháng đau thương
Như ta một lần rồi cũng bỏ trường
Như thầy của ta bỏ màu áo đạo
Như bạn bè ta chết giữa thê lương !
Nên ta bây giờ ghét kẻ cuồng ngông
Nhìn máu Việt Nam chảy đỏ theo sông
Nhìn từng lớp xương, nhìn từng xác thịt
Nhìn từng mái đầu chít vội khăn tang !
Hăm ba tuổi đời, ta vẫn là ta
Việt Nam vẫn thêm hận tủi chan hòa
Ta thấy cổ truyền Á Đông như mất
Lỡ nhận kiếp người đành nhận xót xa !
(Một
trái tim - 1970)
Hay trong một bài thơ khác, Trúc
Thanh Tâm cho ta thấy một hình ảnh quê hương với những cảnh đời bất hạnh, mà
người ta cố tình phung phí máu xương như một món hàng rẻ mạt:
Buổi sáng qua đường gặp người ăn xin
Việt Nam đau thương, Việt Nam tội tình
Thế kỷ hai mươi, con người tranh sống
Thành phố Sài Gòn mọc nhiều building !
Chiến cuộc kéo dài, người bỏ nhau đi
Đứa trẻ không cha lúc mới chào đời
Nước mắt mẹ rơi, nồi da xáo thịt
Những dòng sông buồn có những thây trôi !
Ta khóc cho người, ta khóc cho ta
Khóc cho Việt Nam hận tủi chan hòa
Em hãy lớn khôn để mà hiểu rõ
Cuộc đời không ngoài hình thức đám ma !
Đói rách vẫn còn triền miên đó em
Hãy nhớ nghe em đừng có sai lầm
Dù cho người đời bon chen đến mấy
Xin nhớ một điều, linh hồn Việt Nam !
Xa xí phẩm nào rẻ như máu xương
Em hãy về đốt một nén hương
Cho người đã chết và đang chết
Giọt máu Việt Nam định nghĩa chiến trường !
(Giọt
máu Việt Nam - 1970)
Để thấy được phút giây đợi chờ
ngày đất nước ngưng tiếng súng, quê hương ruộng đồng thôi máu chảy, xác xơ nó
thiêng liêng mầu nhiệm đến mức nào, nó như òa vỡ ra như ngọn lửa hòa bình bùng
cháy trong tim mỗi người:
Ta cũng một lần nói tiếng thủy chung
Yêu em nghe sao đau khổ tột cùng
Rách nát quê hương, một dòng máu chảy
Ta ở bên nầy, em bên kia sông !
………
Đời còn được gì sau những bình minh
Bao người đấu tranh, nào phải tội tình
Tham vọng điên cuồng mà em thấy đó
Đất nước mình nghèo nhưng giàu những lương tâm !
Em hãy bây giờ gần lại anh hơn
Để thấy trong nhau giọt nước mắt buồn
Để thương người sống không về nữa
Đất trổ hoa màu dù lắm mưa bom !
Ta cũng một lần nói tiếng yêu em
Ta cũng một lần nghe những khát thèm
Ta cũng một lần nghe người tự thú
Ngọn lửa hòa bình cháy mãi trong tim !
( Phút đợi chờ - 1970 )
Anh mơ ước được tay nắm lấy bàn tay,
hình dung một đất nước hòa bình như thế nào và tình yêu như ngọn lửa hồng được
nhóm lên trong đêm đông giá rét làm ấm lòng đôi trai gái bền bĩ chờ nhau qua
những năm tháng chiến tranh,thật đẹp biết bao:
Hành trang anh còn nặng tình xứ sở
Những tủi hờn, những kỷ niệm chưa vơi
Nên tình em, anh vẫn chưa ngỏ ý
Sợ mai kia, em lỡ mất cuộc đời !
Em có nghe trong nỗi sầu con gái
Trời mùa đông, ai nhóm bếp lửa hồng
Đất mẹ ơi, còn hai miền Nam, Bắc
Một chiếc cầu thương nhớ một bến sông !
Anh còn gì, những tháng ngày cơm áo
Em được gì, những kiến thức bán mua
Trong can qua, người giành nhau sự sống
Thương nhau hơn giữa xã hội lọc lừa !
Anh hình dung một hòa bình mai mốt
Khi chiến tranh thật sự đã an bày
Anh trở về với tình anh buổi trước
Em thẹn thùng, tay nắm lấy bàn tay !
(Tay
Nắm Bàn Tay - 1971)
Tôi biết ở nước ngoài có một
nhà văn, nhà thơ nổi tiếng lúc còn ở Việt Nam tập hợp những bài thơ tình miền
Nam thời chiến in thành tuyển tập, trong nước không biết có nhà nghiên cứu,
biên khảo văn học nào chú ý đến mảng đề tài nầy không, nếu có một ngày đẹp trời
nào đó tuyển thơ “THƠ MIỀN NAM THỜI CHIẾN” ra mắt thì Trúc Thanh Tâm xứng đáng
có mặt trong tác phẩm đó và tôi hy vọng ngày đó không còn xa nữa.
Bên bờ sông Hậu, tháng 11/2013
NGUYỄN AN BÌNH
Thứ Hai, 28 tháng 12, 2020
CA KHÚC PHỔ THƠ MỚI THU HÀ NỘI TRONG MẮT EM
CA KHÚC PHỔ THƠ MỚI
THU HÀ NỘI TRONG MẮT EM
Thơ NGUYỄN AN BÌNH(từ bài thơ ĐI TÌM MÙA THU HÀ NỘI), phổ thành ca khúc nhạc sĩ PHAN BÁ KIỆT(Cần Thơ). Cám ơn ông anh ỏ quê nhà rất nhiều
GÕ CỬA MÙA THU HÀ NỘI
Tìm
trong màu mắt em trong
Hương
sen Tây Hồ thơm ngát
Tiếng
sâm cầm trong sương sớm
Mênh
mông bờ bãi sông Hồng.
Qua
cầu Long Biên thép gỉ
Thấy
một Hà Nội trầm tư
Theo
em dịu dàng xuống phố
Mơ
gì trên những cửa ô?
Tìm
trong Hà Nội nồng thơm
Sắc
hoa Ngọc Hà xưa cũ
Ai
gánh mùa thu qua đó
Ngậm
ngùi lăng miếu ngàn năm.
Tiếng
chuông buông chiều lặng lẽ
Se
lòng cỏ biếc chân đê
Khẻ
chạm vào từng vân đá
Nghe
hồn thiên cổ quay về.
Vàng
tươi trên từng tán lá
Nắng
dịu dàng theo gót em
Mùa
thu khẽ khàng tha thiết
Long
lanh bóng nước Hồ Gươm.
Gõ
cửa mùa thu Hà Nội
Chút
tình sương khói mong manh
Mùi
cốm vòng trong se lạnh
Nghiêng
lòng Hà Nội vào đêm.
8/11/2017
Chủ Nhật, 27 tháng 12, 2020
CA KHÚC PHỔ THƠ MỚI ĐÀ LẠT NHỮNG NGÀY MƯA CUỐI
CA KHÚC PHỔ THƠ MỚI
ĐÀ LẠT NHỮNG NGÀY MƯA CUỐI
Thơ NGUYỄN AN BÌNH, phổ thành ca khúc nhạc sĩ KỲ ANH
Cám ơn người bạn nhạc sĩ rất nhiều
ĐÀ LẠT, NHỮNG NGÀY MƯA CUỐI
Có đôi lúc lòng mình như tự
hỏi
Tôi lại về hứng mưa bụi
trong sương
Thì ra nhớ góc sầu nơi phố
núi
Thật dịu dàng mùi cỏ dại ngái
hương.
Đôi bạn trẻ đi trong làn mưa nhỏ
Dưới tán dù tim tím thật dễ thương
Tôi đứng dưới mái chợ lầu cổ kính
Lạnh se người biết em nhớ hay quên?
Khăn quàng đỏ có làm em đủ ấm
Dưới chân đồi nghe lá gọi thông reo
Mỗi con dốc đi qua chân mới thấm
Lời thở than hoang hoải dưới chân đèo.
Hiên nhà gỗ nghe phong
linh gõ nhịp
Mái vòm cong chim ngơ ngác
trầm tư
Trong quán vắng chút cà
phê ngọt đắng
Có mềm lòng thao thức khúc
tình ca.
Tôi vẫn thích ngắm nhìn em như thế
Như nàng tiên từ cổ tích bước ra
Con bướm lạc từ cánh rừng gai nhọn
Tuổi thần tiên ngày ấy vẫn chưa xa.
Chiều cuối năm tôi lại về
phố núi
Gió cao nguyên thổi lồng lộng
mây mù
Mùi khoai nướng thơm lừng
trong cái rét
Đêm trở mình sợi tóc cũng
tương tư.
Từng giọt nước rót từ lòng
dâu bể
Thả xuống hồ thành ngọn
sóng long lanh
Con mắt nhớ một ngày mưa
không dứt
Cỏ vẫn mềm và nỗi nhớ vẫn xanh.
Đà Lạt không quên những ngày
mưa cuối
Một người quen ngồi thả lá
bên cầu
Trong sương khói bàn tay còn
chút ấm
Lạnh đất trời một thuở có
tìm nhau?
Đà Lạt-Sài Gòn, 9-19/12/2020
Thứ Bảy, 26 tháng 12, 2020
BÀI VIẾT " PHẠM THIÊN THƯ - NGƯỜI HÀNH GIẢ SUỐT ĐỜI LANG THANG ĐI TÌM ĐỘNG HOA VÀNG"
BÀI VIẾT " PHẠM THIÊN THƯ - NGƯỜI HÀNH GIẢ SUỐT ĐỜI LANG THANG ĐI TÌM ĐỘNG HOA VÀNG"
TRÊN TẠP CHÍ NGÔN NGỮ SỐ 11 THÁNG 1-2/2021 XUÂN TÂN SỬU XUẤT BẢN TẠI HOA KỲ
PHẠM THIÊN THƯ- NGƯỜI HÀNH GIẢ
SUỐT ĐỜI LANG THANG ĐI TÌM ĐỘNG HOA VÀNG
* NGUYỄN AN BÌNH
Khi tôi chuyển về Sài Gòn sinh sống, đó là một cơ hội để
tôi được giao du, tiếp xúc gặp gỡ những văn nghệ sĩ thành danh mà mình nghe tiếng
hoặc ái mộ, họ có những tác phẩm được nhiều người biết đến trước và sau năm
1975 và nhà thơ Phạm Thiên Thư là một trong những người tôi có cái duyên hội ngộ
như thế. Tôi gặp nhà thơ lần đầu sau khi ông đã trải qua cơn đột quỵ thứ hai,
tuy đã thoát qua cửa ải tử sinh nhưng thần thái không còn mẫn tiệp như trước,
tuy nhiên ông vẫn nhớ được nhiều người nhiều việc, vẫn còn sáng tác trong chừng
điều kiện sức khỏe cho phép. Ngồi với ông trong các buổi ra mắt của tập san Quán
Văn ở quán cà phê Lọ Lem, hay trong chùa Linh Bửu ở Quận 8 hoặc có dịp cùng các
bạn văn đến thăm ông ở quán cà phê Hoa Vàng. Nói đến quán cà phê Hoa Vàng các
bạn yêu nhà thơ Phạm Thiên Thư thì ai cũng biết, nó
nằm trên đường Hồng Lĩnh, một con đường
nhỏ khá vắng trong khu cư xá Bắc Hải thuộc quận 10 Tp Hồ Chí Minh, lúc đó trông nhà thơ giống như tiên ông đang phiêu diêu giữa
chốn trần gian còn nhiều tục lụy, trong bộ quần áo đời thường ông ngồi im lặng
như một thiền sư chiêm nghiệm, một triết gia thâm trầm trong làn khói tỏa từ tẩu
thuốc ông hút như một vật bất ly thân, mắt mơ màng nhìn cõi đời một cách ung
dung tự tại làm tôi liên tưởng đến một hành giả đã rũ bỏ lòng trần đang trở về
non để tìm Động Hoa Vàng ngủ một giấc thật say.
Căn nhà ở đường Hồng Lĩnh
nơi ông ở tầng dưới là quán cà phê lấy tên Hoa Vàng nơi người vợ sau của ông
kinh doanh để mưu sinh, phía bên kia đường đặt một vài cái bàn, một ít cái ghế
để cho khách thập phương thích không khí đường phố ngồi uống cà phê chuyện trò
và nơi đây cũng là chỗ ngồi thường xuyên của ông với tẩu thuốc luôn thả khói.
Có một giai thoại thú vị về thời kỳ quán cà phê Hoa Vàng mới mở: Vì chưa có
nhiều khách nên ông vừa là tiếp viên vừa kiêm luôn việc giữ xe cho khách. Nhiều cô cậu tuổi teen thích những ca khúc phổ từ thơ
Phạm Thiên Thư tìm đến Hoa Vàng để được
xem “chàng hoàng tử” của “nàng Hoàng Thị Ngọ” ra sao, gửi xe xong hỏi ông lão giữ xe: “Nhà thơ Phạm Thiên
Thư có ở đây không ạ?”. Lão giữ xe cục mịch cười “khoe” hàm răng vẩu: “Ông ấy
đi vắng rồi”.
Trước mặt chỗ ông ngồi có đặt một tảng đá lớn
và thường xuyên có cắm vài đóa cúc vàng còn tươi. Bạn bè đến thăm ông để ý ở
mỗi địa điểm cư ngụ mà ông đi qua đều có sự hiện diện của hoa vàng, có lẽ trong
cuộc đời thi sĩ hoa vàng là một biểu tượng gắn liền với những ký ức, cuộc tình
không quên nào đó chăng? Có lần ông kể với bạn bè : “Năm 1942, khi cả gia đình còn ở xã Chi Ngãi, huyện Chí Linh (Hải
Dương), bố tôi mua hẳn ngọn đồi Phượng Hoàng. Hoa cúc dại vàng mọc mênh mông, bát ngát chạy dài che
khuất đường chân trời”. Chính hình ảnh hoa vàng ấy đã theo ông suốt cả từ thời niên thiếu
đó cho đến khi vào Nam, hoa vàng luôn có mặt những nơi ông ở và nó xuất hiện dày đặc trong thơ Phạm
Thiên Thư. Nó trở thành một biểu tượng xuyên suốt, một nỗi hoài niệm
khôn nguôi trong lòng nhà thơ.
Trở lại với bài thơ Động Hoa Vàng,
ta cũng nên tìm hiểu một chút về sự ra đời của nó: Trước năm 1975 ở miền Nam sống trong bầu không khí chiến tranh đầy bất an,
lòng người chán chường luôn tìm cách thoát khỏi cái không khí ngột ngạt chết người,
đúng trong thời điểm đó xuất hiện những nhạc phẩm thật trong sáng lãng mạn nói
về tình yêu học trò, thanh niên học sinh thời ấy ai mà không si mê các ca khúc
mà nhạc sĩ Phạm Duy đã phổ thơ Phạm Thiên Thư, nó như một làn gió mới nổi đình
nổi đám tràn qua các đô thị miền Nam thời bấy giờ.
Sự kết hợp thơ nhạc giữa Phạm Duy và Phạm Thiên Thư hình
như có mối duyên kỳ ngộ thì phải: Bản thân nhạc sĩ khi đọc thơ của Phạm Thiên
Thư đã nhận ra rằng những bài thơ về đạo của nhà thơ lại rất gần với đời nên
trong lúc hứng khởi ông đã phổ một loạt 10 bài đạo ca vào năm 1971 và từ duyên
nghiệp đó lại chính là chiếc cầu nối để Phạm Duy phổ những bài thơ tình của Phạm
Thiên Thư, tính ra khoảng 15 bài tình ca ra đời sau đó như: Ngày xưa Hoàng Thị,
Đưa em tìm động hoa vàng, Em lễ chùa nầy, Gọi em là đóa hoa sầu. Loài chim bỏ xứ...
Sau nầy trong hồi ký của Phạm Duy, người nhạc sĩ cũng cho
ta thấy rõ điều đó: Khoăng năm 1970, nhạc Phạm Duy đã trải qua một chặng đường
dài phổ biến trong các đô thị miền Nam, ông sáng tác rất nhiều thể loại từ dân
ca, tình ca, vỉa hè ca, hoan ca, tục ca, tâm phẫn ca...sáng tác của Phạm Duy
đang đi vào bế tắc. Ngay thời điểm đó, với sự giới thiệu của nhà văn Nguyễn Đức
Quỳnh, ông bắt gặp những vần thơ thanh thoát, nhẹ nhàng, vừa mênh mang lại thâm
trầm, nửa đạo nửa đời, chứa đựng thiền ý sâu xa của người tu sĩ làm thơ Thích
Tuệ Không(pháp danh của Phạm Thiên Thư lúc bấy giờ). Phạm Duy đã tìm ra lối
thoát cho việc sáng tác nhạc của mình và những bài Đạo ca được ra đời từ ấy.
Cũng trong mối duyên thơ nhạc đó, những bài tình ca dựa vào thơ của Phạm Thiên
Thư cũng lần lượt ra đời tạo nên một làn sóng hâm mộ trong lòng người yêu nhạc.
Ca khúc “Đưa em tìm động hoa vàng” là một ca khúc nổi tiếng
đi vào lòng người yêu nhạc từ những năm đầu thập niên 1970 cho mãi đến bây giờ
được Phạm Duy chọn lọc, lấy ra những câu thơ ấn tượng nhất trong bài thơ Động hoa
vàng của Phạm Thiên Thư để viết ra. Phạm Duy đã từng viết về điểu nầy: “Phạm Thiên
Thư đưa cho tôi tập thơ Ðưa em tìm động hoa vàng hay bài thơ Gọi em là đóa hoa
sầu... để tôi phổ thành những bài hát thanh cao nhất của thời đại. Ðối với tôi
lúc đó, hình ảnh thiền, chùa, động hoa vàng thật là mát mẻ và rất cần thiết.
Bài Ðưa em tìm động hoa vàng được rút ra từ mấy trăm câu thơ của thi sĩ, và ta
chỉ cần có ba đoạn ca là nói lên hết được cái cảnh ngày xưa, có kẻ từ quan, lên
non tìm động hoa vàng... Ðể làm gì? Không phải chỉ để nhớ nhau mà chính ra là
để ẩn náu vậy”. (Trích Vang Vọng Một Thời – Mùa
hè, 2012)
Động Hoa Vàng là một tập
trường thi gồm 100 khúc thơ lục bát(mỗi
khúc 4 câu) thể hiện tâm thức của một hành giả giác ngộ trước cuộc sống nhân
sinh đầy bất trắc muộn phiềnmuốn thoát ly sinh tử tìm về cội nguồn vĩnh cửu của
cái đẹp thiên tiên không vướng bụi trần và những tục tụy buông bỏ lại sau lưng.
Thoát khỏi vòng luân hồi chìm đắm trong cõi nhân sinh phiền muộn là ý muốn của
nhiều người khi đời đã trải qua nhiều thăng trầm của cuộc sống. Ta biết tác phẩm Động hoa vàng được Tuệ Không, tức
Phạm Thiên Thư viết ra trong một hoàn cảnh đất nước chiến tranh, giữa một xã
hội và thời sự đảo điên, lối sống thực dụng băng hoại nên lời thơ muốn thoát đi
những dung tục đó tìm về một thế
giới yên bình, hạnh phúc đơn sơ gắn bó với thiên nhiên như sông suối, đồi cỏ, mây hồng, triết
lý của đạo phật phảng phất trong từng câu thơ, hình ảnh. Những ai yêu thích, say đắm bài
thơ Động Hoa Vàng chắc sẽ bất ngờ khi biết nhiều hình ảnh, ý tứ của bài thơ
được nhà thơ lấy cảm hứng từ căn gác gỗ ở khu cù lao Phan Xích Long. Hay nói một cách nào đó, khu cù lao
Phan Xích Long chính là “động hoa vàng” thu nhỏ của Phạm Thiên Thư
thời kỳ đó. Cũng
chính nơi đây, ông
đã trải qua những năm tháng sáng tác rực rỡ nhất trong cuộc đời mình. Nơi đây
còn là nơi cư ngụ
của nhiều văn nghệ sĩ như Trụ Vũ, Thụy Long, cũng là nơi lui tới bàn chuyện con
chữ thế sự của Phạm Duy, Sơn Nam... Năm 1968, gia đình nhà thơ mua 400m2 đất ở khu cù lao. Rồi ông sáng tác thi
phẩm Động hoa vàng với 100 đoạn thơ
trong giai đoạn nầy. Mỗi
đoản khúc được ví một tiếng hót của loài dị điểu, sẵn sàng yêu và chết, và để tiếng hót của
mình rơi rụng trên giang hà.
Nói về Phạm Thiên Thư có người nhận xét: “người
hiền sĩ ngồi bên lề cuộc sống ta bà, lặng yên thi hóa kinh phật”.
Đọc thơ ông, ta tìm thấy những điều phong phú và mới lạ về tôn giáo, tình yêu
và thiên nhiên. Giữa một thời đạn lửa, ông bình thản lập cho mình một cõi thi
ca riêng: trong trẻo, trữ tình và đậm chất Thiền…
Trước
hết Động hoa vàng theo tôi là một
bài thơ ...tình chứa đậm rất nhiều thiền ý và gã từ quan trong bài cũng là người
hành giả đang lang thang suốt đời luôn đi tìm một tình yêu trong sương khói mịt
mù:
Ta về rũ áo mây trôi
Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ lan
Rằng xưa có gã từ quan
Lên non tìm động hoa vàng ngủ say
Cái
tình ấy bắt đầu từ việc “ Rằng xưa có gã từ
quan. Lên non tìm động hoa vàng ngủ say”, người ta những tưởng cái gã từ quan ấy
chán ngán mệt mỏi lắm rồi sự gò bó của chốn quan trường đầy xu nịnh, buông bỏ tất
cả lên non tìm sự nhàn nhã thanh thản trong phần đời còn lại của mình nhưng
không phải thế, nó lại mở ra một cõi tình mênh mông, nỗi khao khát kiếm tìm tỉnh
yêu trong một không gian đầy sương khói mờ ảo và mộng mị. Cái tình trong
tác phẩm bàng bạc khắp nơi nhưng đó không phải là cái tình dung tục mà là một bản
tình ca đôi lứa, có sự hòa quyện giữa đạo và đời đậm
hương vị thiền. Giữa đạo và đời, giữa tình yêu và thiền học những tưởng không
thể dung hòa với nhau được thế mà cái nhân vật trữ tình ấy, cái gã từ quan ấy mà
tôi gọi đó là một hành giả lại vương vấn ở giữa hai dòng nước đời và đạo, giữa
tình yêu trần tục và phật pháp trong bản ngã của mình.
Chẳng
vậy mà trong suốt 100 khổ thơ lục bát 4 câu được dành nói về nàng, về nét đẹp của người thiếu nữ trong thơ được Phạm Thiên Thư diễn
tả trong nhiều mối quan hệ biến
hóa thiên hình vạn trạng, khi thì mờ mờ ảo ảo như sương khói khi thì lồ lộ rất
trần thế nhưng không dung tục, ngay từ đầu ta đã thấy:
Mười con nhạn trắng về tha
Như Lai thường trụ trên tà áo
xuân
Vai nghiêng nghiêng suối tơ huyền
Đôi gò đào nở trên miền tuyết thơm
Nhà thơ như muốn gởi một thông điệp đến
người đọc một cảm thức một tình yêu thi vị đầy thiên tiên, người tình được
nhìn,cảm nhận bằng một ngôn ngữ trong veo đầy thiền vị:
Em nằm ngó cội thu xanh
Môi ươm đào lý một nhành đôi mươi
Về em vàng phố mây trời
Tay đơm nụ hạ hoa dời gót xuân
Nỗi buồn, nỗi đoạn trường lại được nhắc đến rất nhẹ nhàng:
Thì thôi tóc ấy phù vân
Thì thôi lệ ấy còn ngần dáng
sương
Thì thôi mù phố xe đường
Thì thôi thôi nhé đoạn trường thế
thôi”
Đôi khi những kỷ niệm
của tình yêu chợt ùa về trong tâm tưởng tạo nên sự hoài niệm khôn nguôi về những ngày xưa
cũ nhưng thật tinh khôi:
Nhớ xưa em chửa theo chồng
Mùa xuân em mặc áo hồng đào rơi
Mùa thu áo biếc da trời
Sang đông em lại đổi dời áo hoa
Trong một đoạn thơ khác, Phạm
Thiên Thư đã dùng hình tượng con chim để nói lên điều đó:
Con chim mùa nọ chưa chồng
Cũng bay rời rã trong
dòng xuân thu
Từ em giặt áo đông tơ
Nay nghe lòng suối
hững hờ còn ngâm
Và trong
Động Hoa Vàng ta còn bắt gặp những hình ảnh gần gủi quen thuộc trong điển tích hay trong cổ thi được nhà thơ vận dụng một cách khéo léo nhuần nhuyễn để hiện
chủ đích của mình:
Ta về rũ áo mây trôi
Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ
lan
Rằng xưa có gã từ quan
Lên non tìm động hoa vàng ngủ say
Đoạn thơ làm
ta nhớ đến Từ Thức gặp tiên trong Truyền Kỳ Mạn Lục của
Nguyễn Dữ, chán ngán trước những ràng buộc, gò bó của chốn quan trường mà treo ấn
từ quan đi chu du thiên hạ còn ở Phạm Thiên Thư ông có làm quan đâu mà từ, như vậy nó chỉ là một cái
cớ, một tiền đề thể hiện quan niệm sống của một tu sĩ có pháp danh Tuệ Không
xem đời chỉ là cõi phù vân nên “rũ áo mây trôi” và bắt đầu cái ý tưởng phiêu bồng
bằng việc “Lên non tìm động hoa vàng ngủ say” vậy.
Hình ảnh Từ Thức tìm về thiên thai phải
chăng được thể hiện qua đoạn thơ đầy biểu tượng nầy:
Chênh vênh đầu trượng thiền sư
Cửa non khép ải sương mù bóng ai
Non xanh ướm hỏi trang đài
Trăm năm còn lại dấu hài động hoa
Ta còn bắt gặp một
chút sự giống nhau về tâm thức của nhà thơ trong một đoạn khác:
Đợi nhau tàn cuộc hoa nầy
Đành như cánh bướm đồi Tây hững hờ
Làm ta nghĩ đến Trương Quân Thụy
và Thôi Oanh Oanh gặp nhau lần đầu ở chùa Phổ Cưu, ở đồi Tây trong Tây Sương Ký
của Vương Thực Phủ. Một số câu thơ khác cũng vậy:
Tưởng xưa có kẻ
trên lầu
Ngày xuân gieo nhẹ trái cầu gấm
hoa
Đường về hái nụ mù sa
Đưa theo dài một nương cà tím
thôi
Thôi thì em chẳng yêu tôi
Leo lên cành bưởi nhớ người rưng
rưng
Ta còn bắt gặp trên bước lang thang tìm Động hoa vàng cho riêng mình, người
hành giả ấy đã tự tạo cho mình một cuộc sống hòa vào thiên nhiên để từ đó thấy
được niềm vui bất chợt và tâm hồn như được gột sạch bao nỗi buồn phiền:
Lên non cuốc sỏi trồng hoa
Xuôi thuyền lá trúc la đà câu
sương
Vớt con cá nhỏ lòng đòng
Mải vui lại thả xuống dòng suối
tơ
Một đêm nằm ngủ trong mây
Nhớ đâu tiền
kiếp có cây hương trời
Cây bưởi trắng ngát hương đời
Nụ là tay phật chỉ người qua song
Chính vì thế chất thiền trong Động hoa vàng
được nhà thơ thể hiện thông qua nhiều hình tượng, hình ảnh ẩn dụ, phóng dụ như:
thông xanh, suối biếc, miền tuyết thơm, suối hoa rừng, thềm trăng, đồi Dạ Lan,
miền cỏ hoa, bến hoa tươi...Tất cả những hình ảnh ấy rất đơn sơ, bình dị nhưng
thật trong sáng thoát tục. Chúng ta thử điểm qua vài đoạn thơ như thế:
Ta về rũ áo mây trôi
Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ
lan
Mùi
hương hoa trong ấm trà mùa đông:
Đất nam có lão trồng hoa
Mùa hoàng cúc nở ướp trà uống
đông
Có thể là cánh hoa dại ven đường mùa đông:
Bông hoa trắng rụng bên đường
Cánh thơm thông điệp vô thường
tuyết băng
Hay ánh trăng in dấu hài hoa:
Người về sao nở trên tay
Với hài đẫm nguyệt thêm dài gót
hoa
Hoặc bóng trăng thanh
bình nơi thôn dã:
Bóng trăng tịch mặc hiên nhà
Thành đàn nảy hạt tỳ bà quyện hương
Bóng hạc nhuốm màu huyền thoại như trong bài thơ Hoàng Hạc Lâu:
Hạc xưa về khép cánh tà
Tiếng rơi thành hạt mưa sa tần
ngần
Mùa xuân trong Động hoa vàng được
nhắc đến rất nhiều lần tràn đầy tiếng chim, hương hoa cây cỏ bốn mùa xanh mát,
ánh trăng huyền diệu soi mái thề và ngay cả sự hoài niệm cũng mang hơi thở ấm
áp nồng nàn của mùa xuân:
Mười con nhạn trắng về tha
Như lai thượng trụ trên tà áo
xuân
Mùa xuân bỏ vào suối chơi
Nghe chim hát núi gọi trời xuống
hoa
Có con cá mại bờ xanh
Bơi lên nguồn cội tắm nhành suối
xuân
Giữa dòng cá gặp phù vân
Hỏi sao mây bỏ non thần xuống
chơi
Con khuyên nó hót trên bờ
Em thay áo tím thờ ơ giang đầu
Nhớ xưa có kẻ lên lầu
Ngày xuân gieo nhẹ trái cầu gấm
hoa
Rượu
cũng thể thiếu với gã hành giả lang thang
trên đồi cao cỏ biếc, đó cũng là lẽ thường tình được nhắc đến
để nhà thơ thỏa mãn cảm hứng
đề thơ hay ngâm vịnh, mượn rượu để gởi gấm tình yêu của mình:
Đưa nhau đổ chén rượu hồng
Mai sau em có theo chồng đất xa
Qua đò gõ nhịp chèo ca
Nước xuôi làm rượu quan hà chuốc
say
Đưa nhau đấu rượu hoa này
Mai đi dã hạc thành ngoài cuồng
ngâm
Cửa sương nhẹ mở âm vào
Lay nghiêng bầu nậm rượu đào trầm
ca
Lại đem bầu ngọc ra trồng
Bầu khô cất nậm rượu hồng uống
xuân
Động nam hoa có thiền sư
Đổi kinh lấy rượu tâm hư uống
tràn
Nghiêng ly mình cạn bóng mình
Tay ôm vò nguyệt một bình mây bay
Đọc Động Hoa Vàng ta cảm nhận nó như một dòng suối chảy
miên man trên một triền núi xa xăm đem nước nguồn tinh khiết vun bồi cho đất
đai thêm màu mỡ, như một đám mây trôi bàng bạc khắp trời nhiều màu sắc tấu
thành một khúc nhạc mong tìm thấy tri âm tri kỷ như Bá Nha Tử Kỳ nhưng thử hỏi
trên đời nầy có được mấy người đạt được sở nguyện như
thế nên người hành giả ấy vẫn mãi lang thang đi tìm Động hoa vàng khắp đầu non
cuối bể giống như Từ Thức giầy rơm nón cỏ chống thiền trượng tìm về thiên thai
nhưng lối xưa đã che lấp dấu giầy của tiên
nương mất rồi.
Chênh vênh đầu trượng thiền sư
Cửa non khép ải sương mù bóng ai
Non xanh ướm hỏi trang đài
Trăm năm còn lại dấu hài động hoa
Phải chăng đến một lúc nào đó ta cũng nên đi tìm một ĐỘNG HOA VÀNG cho
riêng mình các bạn nhỉ?
NGUYỄN AN BÌNH
_______________________________________________________
Tham khảo:
-
Tìm “Động hoa vàng” của Đặng Tiến trên tập san Quán Văn số 32
-
Ý nghĩa của bài thơ Động hoa vàng của Nguyễn Mộng Khôi
-
“Động hoa vàng” của Phạm Thiên Thư trên báo Tuổi Trẻ online ngày 5/12/2016
-
Bài thơ Động hoa vàng của Phạm Thiên Thư nhìn từ Văn Hóa Thiền của Hồ Tấn
Nguyên Minh.
-
Đến Động hoa vàng gặp “Gã từ quan” của Lê Bá Lư