Vương Hàn 王 翰
(687-735), Thịnh Đường
涼 州 詞 其 二
Phiên âm
Lương
Châu từ kỳ 2
Tần trung hoa điểu dĩ ưng lan,
Tái ngoại phong sa do tự hàn.
Dạ thính hồ già "Chiết dương liễu",
Giao nhân ý khí ức Trường An.
Tái ngoại phong sa do tự hàn.
Dạ thính hồ già "Chiết dương liễu",
Giao nhân ý khí ức Trường An.
Dịch
nghĩa
Ở
đất Tần, hoa sắp tàn, chim bay đi gần hết
Trong khi ngoài quan ải gió cát vẫn còn lạnh lẽo
Ban đêm nghe tiếng Hồ già thổi bài "Chiết dương liễu"
Làm cho (người chiến sĩ) hồi nhớ về đất Trường An.
Trong khi ngoài quan ải gió cát vẫn còn lạnh lẽo
Ban đêm nghe tiếng Hồ già thổi bài "Chiết dương liễu"
Làm cho (người chiến sĩ) hồi nhớ về đất Trường An.
Dịch thơ
Lương Châu Từ bài 2
Đất Tần, hoa điểu bay đi hết
Biên ải lạnh lùng gió cát bay
Đêm nghe Hồ thổi “Chiết dương liễu”
Trường An lính thú chạnh lòng ai.
NGUYỄN AN BÌNH
______________________________________________________
*Vương Hàn 王翰 (687-735) tự là Tử Vũ 子羽, người đất Tấn Dương (nay là huyện Thái Nguyên, tỉnh Sơn
Tây). Thuở nhỏ, tính hào phóng, thích uống rượu. Ông thi đậu tiến sĩ, làm quan
đến chức Giá bộ viên ngoại lang. Vì kiêu căng nên nhiều người ghét, bị đổi ra
làm Trưởng sử Nhữ Châu, sau đổi làm Biệt giá Tiên Châu, rồi bị biếm làm Tư mã
Đạo Châu và mất tại đây.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét