VƯƠNG DUY 王 维
(701 – 761), Thịnh Đường
送 別(下 馬 飲 君 酒)
Phiên âm
Tống biệt (Há mã ẩm quân tửu)
Há
mã ẩm quân tửu,
Vấn quân hà sở chi?
Quân ngôn bất đắc ý:
Quy ngoạ Nam Sơn thuỳ.
Đãn khứ mạc phục vấn,
Bạch vân vô tận thì!
Vấn quân hà sở chi?
Quân ngôn bất đắc ý:
Quy ngoạ Nam Sơn thuỳ.
Đãn khứ mạc phục vấn,
Bạch vân vô tận thì!
Dịch nghĩa
TIỄN BẠN(XUỐNG NGỰA UỐNG CHÉN RƯỢU)
Xuống ngựa uống chén
rượu tiễn bạn
Hỏi bạn đi về đâu
Bạn nói rằng không được vừa ý
Về nhà ở mé Chung Nam sơn ngủ quên đời
Thôi thì bạn cứ đi tôi chẳng hỏi nữa
Mây trắng bay mãi không bao giờ hết
Hỏi bạn đi về đâu
Bạn nói rằng không được vừa ý
Về nhà ở mé Chung Nam sơn ngủ quên đời
Thôi thì bạn cứ đi tôi chẳng hỏi nữa
Mây trắng bay mãi không bao giờ hết
*Bài thơ này làm khi đưa Mạnh Hạo Nhiên lên đường về ẩn cư ở núi Chung Nam.
Dịch thơ
TIỄN BẠN
Xuống
ngựa mời nhau chén rượu đầy
Về
đâu bạn hởi lúc chia tay
Thói
đời đen bạc về non ở
Thẫn
thờ tình mãi trắng ngàn mây.
NGUYỄN AN BÌNH
Xuống yên uống rượu cùng
anh
Hỏi anh sắp sửa cất mình đi đâu
Rằng ta chán chuyện mưu cầu
Định về nằm ở mé đầu Nam sơn
Đi đây đừng có hỏi han
Mây kia trắng xóa chẳng tan bao giờ
Hỏi anh sắp sửa cất mình đi đâu
Rằng ta chán chuyện mưu cầu
Định về nằm ở mé đầu Nam sơn
Đi đây đừng có hỏi han
Mây kia trắng xóa chẳng tan bao giờ
TRẦN TRỌNG KIM
________________________________________________________________
Vương Duy (chữ Hán: 王维; 701 - 761), biểu tự Ma Cật (摩诘), hiệu Ma Cật cư sĩ (摩诘居士), là một nhà thơ, một họa sĩ, một nhạc sĩ, một nhà viết thư pháp và một chính khách nổi
tiếng đời Thịnh Đường. Ông là
người tinh thông về Phật học và theo trường phái Thiền tông. Trong Phật giáo có Duy Ma Cật
kinh, là kinh sách do Duy-ma-cật dùng
để giảng dạy cho môn sinh. Do tập trung về Phật giáo, ông được người đời gọi
là Thi Phật (詩佛).
Cùng với Thi Tiên Lý Bạch, Thi Thánh Đỗ Phủ và Thi Quỷ Lý Hạ, Vương Duy có biệt danh Thi Phật đã
tạo nên hiện tượng Thánh-Tiên-Phật-Quỷ cùng xuất hiện trong giai đoạn cực thịnh
của thơ Đường. Ngày nay còn giữ được khoảng 400 bài thơ của ông, với phong cách
tinh tế, trang nhã.
ương Duy người huyện Kỳ, Tấn Trung, Sơn Tây, Trung Quốc. Ông xuất thân trong gia tộc rất
danh giá thời Đường là Thái Nguyên Vương
thị. Cha ông là Vương
Xử Liêm (王处廉), mẹ là Thôi thị, trong nhà ông là trưởng, sau đó
tới Vương Tấn (王缙), cùng 2 em trai và một em gái.
Năm Khai Nguyên thứ 9 (721),
thời Đường Huyền Tông,
Vương Duy đỗ tiến sĩ, nhận chức
quan Đại nhạc thừa, sau phạm điều cấm, bị khiển trách và phải
đến Tế Châu làm tham
quân. Năm Khai Nguyên thứ 14 (726), ông từ bỏ quan chức,
nhưng sau đó lại nhận chức Hữu thập di[1], thăng tới Giám sát ngự sử.
Năm 40 tuổi, được thăng lên Điện trung truyền ngự sử.
Năm Thiên Bảo thứ 14 (755), An Lộc Sơn chiếm Trường An. Vương Duy bị An Lộc Sơn bức bách
ra làm quan, nhưng sau không được như ý, ông đã lui về ở tại biệt thự Lam Điền, sáng tác thơ ca để biểu đạt lòng
mình. Sau khi An Lộc Sơn thất bại, nhờ có em trai là Vương Tấn khi đó
đang giữ chức quan cao nên Vương Duy được miễn tội và được phong chức Thái
tử trung doãn, sau thăng tới Thượng thư hữu thừa, vì thế người
đời còn gọi ông là Vương hữu thừa (王右丞).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét