Chủ Nhật, 31 tháng 1, 2021

RA MẮT SÁCH "GẶP NHAU BÊN ĐỘNG HOA VÀNG"

 RA MẮT SÁCH "GẶP NHAU BÊN ĐỘNG HOA VÀNG"

Sáng 29/1/2021 tại Cafe nhà cổ "DÁNG XƯA", số 45A đường số 59, p. 10. Q 6 TPHCM tổ chức Chương trình PHẠM THIÊN THƯ VÀ NHỮNG NGƯỜI BẠN, ra mắt sách" GẶP NHAU BÊN ĐỘNG HOA VÀNG"

NGUYỄN AN BÌNH VỚI BÀI VIẾT "PHẠM THIÊN THƯ, NGƯỜI HÀNH GIẢ SUỐT ĐỜI LANG THANG ĐI TÌM ĐỘNG HOA VÀNG.".







 

 

PHẠM THIÊN THƯ- NGƯỜI HÀNH GIẢ SUỐT ĐỜI LANG THANG ĐI TÌM ĐỘNG HOA VÀNG

                                                                   * NGUYỄN AN BÌNH

 

Khi tôi chuyển về Sài Gòn sinh sống, đó là một cơ hội để tôi được giao du, tiếp xúc gặp gỡ những văn nghệ sĩ thành danh mà mình nghe tiếng hoặc ái mộ, họ có những tác phẩm được nhiều người biết đến trước và sau năm 1975 và nhà thơ Phạm Thiên Thư là một trong những người tôi có cái duyên hội ngộ như thế. Tôi gặp nhà thơ lần đầu sau khi ông đã trải qua cơn đột quỵ thứ hai, tuy đã thoát qua cửa ải tử sinh nhưng thần thái không còn mẫn tiệp như trước, tuy nhiên ông vẫn nhớ được nhiều người nhiều việc, vẫn còn sáng tác trong chừng điều kiện sức khỏe cho phép. Ngồi với ông trong các buổi ra mắt của tập san Quán Văn ở quán cà phê Lọ Lem, hay trong chùa Linh Bửu ở Quận 8 hoặc có dịp cùng các bạn văn đến thăm ông ở quán cà phê Hoa Vàng. Nói đến quán cà phê Hoa Vàng các bạn yêu nhà thơ Phạm Thiên Thư thì ai cũng biết, nó nằm trên đường Hồng Lĩnh, một con đường nhỏ khá vắng trong khu cư xá Bắc Hải thuộc quận 10 Tp Hồ Chí Minh, lúc đó trông nhà thơ giống như tiên ông đang phiêu diêu giữa chốn trần gian còn nhiều tục lụy, trong bộ quần áo đời thường ông ngồi im lặng như một thiền sư chiêm nghiệm, một triết gia thâm trầm trong làn khói tỏa từ tẩu thuốc ông hút như một vật bất ly thân, mắt mơ màng nhìn cõi đời một cách ung dung tự tại làm tôi liên tưởng đến một hành giả đã rũ bỏ lòng trần đang trở về non để tìm Động Hoa Vàng ngủ một giấc thật say.

Căn nhà ở đường Hồng Lĩnh nơi ông ở tầng dưới là quán cà phê lấy tên Hoa Vàng nơi người vợ sau của ông kinh doanh để mưu sinh, phía bên kia đường đặt một vài cái bàn, một ít cái ghế để cho khách thập phương thích không khí đường phố ngồi uống cà phê chuyện trò và nơi đây cũng là chỗ ngồi thường xuyên của ông với tẩu thuốc luôn thả khói. Có một giai thoại thú vị về thời kỳ quán cà phê Hoa Vàng mới mở: Vì chưa có nhiều khách nên ông vừa là tiếp viên vừa kiêm luôn việc giữ xe cho khách. Nhiều cô cậu tuổi teen thích những ca khúc phổ từ thơ Phạm Thiên Thư tìm đến Hoa Vàng để được xem “chàng hoàng tử” của “nàng Hoàng Thị Ngọ” ra sao, gửi xe xong hỏi ông lão giữ xe: “Nhà thơ Phạm Thiên Thư có ở đây không ạ?”. Lão giữ xe cục mịch cười “khoe” hàm răng vẩu: “Ông ấy đi vắng rồi”.  

 Trước mặt chỗ ông ngồi có đặt một tảng đá lớn và thường xuyên có cắm vài đóa cúc vàng còn tươi. Bạn bè đến thăm ông để ý ở mỗi địa điểm cư ngụ mà ông đi qua đều có sự hiện diện của hoa vàng, có lẽ trong cuộc đời thi sĩ hoa vàng là một biểu tượng gắn liền với những ký ức, cuộc tình không quên nào đó chăng? lần ông kể với bạn bè : “Năm 1942, khi cả gia đình còn ở xã Chi Ngãi, huyện Chí Linh (Hải Dương), bố tôi mua hẳn ngọn đồi Phượng Hoàng. Hoa cúc dại vàng mọc mênh mông, bát ngát chạy dài che khuất đường chân trời”. Chính hình ảnh hoa vàng ấy đã theo ông suốt cả từ thời niên thiếu đó cho đến khi vào Nam, hoa vàng luôn có mặt những nơi ông ở và nó xuất hiện dày đặc trong thơ Phạm Thiên Thư. Nó trở thành một biểu tượng xuyên suốt, một nỗi hoài niệm khôn nguôi trong lòng nhà thơ.

Trở lại với bài thơ Động Hoa Vàng, ta cũng nên tìm hiểu một chút về sự ra đời của nó: Trước năm 1975 ở miền Nam sống trong bầu không khí chiến tranh đầy bất an, lòng người chán chường luôn tìm cách thoát khỏi cái không khí ngột ngạt chết người, đúng trong thời điểm đó xuất hiện những nhạc phẩm thật trong sáng lãng mạn nói về tình yêu học trò, thanh niên học sinh thời ấy ai mà không si mê các ca khúc mà nhạc sĩ Phạm Duy đã phổ thơ Phạm Thiên Thư, nó như một làn gió mới nổi đình nổi đám tràn qua các đô thị miền Nam thời bấy giờ.

Sự kết hợp thơ nhạc giữa Phạm Duy và Phạm Thiên Thư hình như có mối duyên kỳ ngộ thì phải: Bản thân nhạc sĩ khi đọc thơ của Phạm Thiên Thư đã nhận ra rằng những bài thơ về đạo của nhà thơ lại rất gần với đời nên trong lúc hứng khởi ông đã phổ một loạt 10 bài đạo ca vào năm 1971 và từ duyên nghiệp đó lại chính là chiếc cầu nối để Phạm Duy phổ những bài thơ tình của Phạm Thiên Thư, tính ra khoảng 15 bài tình ca ra đời sau đó như: Ngày xưa Hoàng Thị, Đưa em tìm động hoa vàng, Em lễ chùa nầy, Gọi em là đóa hoa sầu. Loài chim bỏ xứ...

Sau nầy trong hồi ký của Phạm Duy, người nhạc sĩ cũng cho ta thấy rõ điều đó: Khoăng năm 1970, nhạc Phạm Duy đã trải qua một chặng đường dài phổ biến trong các đô thị miền Nam, ông sáng tác rất nhiều thể loại từ dân ca, tình ca, vỉa hè ca, hoan ca, tục ca, tâm phẫn ca...sáng tác của Phạm Duy đang đi vào bế tắc. Ngay thời điểm đó, với sự giới thiệu của nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh, ông bắt gặp những vần thơ thanh thoát, nhẹ nhàng, vừa mênh mang lại thâm trầm, nửa đạo nửa đời, chứa đựng thiền ý sâu xa của người tu sĩ làm thơ Thích Tuệ Không(pháp danh của Phạm Thiên Thư lúc bấy giờ). Phạm Duy đã tìm ra lối thoát cho việc sáng tác nhạc của mình và những bài Đạo ca được ra đời từ ấy. Cũng trong mối duyên thơ nhạc đó, những bài tình ca dựa vào thơ của Phạm Thiên Thư cũng lần lượt ra đời tạo nên một làn sóng hâm mộ trong lòng người yêu nhạc.

Ca khúc “Đưa em tìm động hoa vàng” là một ca khúc nổi tiếng đi vào lòng người yêu nhạc từ những năm đầu thập niên 1970 cho mãi đến bây giờ được Phạm Duy chọn lọc, lấy ra những câu thơ ấn tượng nhất trong bài thơ Động hoa vàng của Phạm Thiên Thư để viết ra. Phạm Duy đã từng viết về điểu nầy: “Phạm Thiên Thư đưa cho tôi tập thơ Ðưa em tìm động hoa vàng hay bài thơ Gọi em là đóa hoa sầu... để tôi phổ thành những bài hát thanh cao nhất của thời đại. Ðối với tôi lúc đó, hình ảnh thiền, chùa, động hoa vàng thật là mát mẻ và rất cần thiết. Bài Ðưa em tìm động hoa vàng được rút ra từ mấy trăm câu thơ của thi sĩ, và ta chỉ cần có ba đoạn ca là nói lên hết được cái cảnh ngày xưa, có kẻ từ quan, lên non tìm động hoa vàng... Ðể làm gì? Không phải chỉ để nhớ nhau mà chính ra là để ẩn náu vậy”. (Trích Vang Vọng Một Thời – Mùa hè, 2012)

Động Hoa Vàng là một tập trường thi gồm 100 khúc thơ lục bát(mỗi khúc 4 câu) thể hiện tâm thức của một hành giả giác ngộ trước cuộc sống nhân sinh đầy bất trắc muộn phiềnmuốn thoát ly sinh tử tìm về cội nguồn vĩnh cửu của cái đẹp thiên tiên không vướng bụi trần và những tục tụy buông bỏ lại sau lưng. Thoát khỏi vòng luân hồi chìm đắm trong cõi nhân sinh phiền muộn là ý muốn của nhiều người khi đời đã trải qua nhiều thăng trầm của cuộc sống. Ta biết tác phẩm Động hoa vàng được Tuệ Không, tức Phạm Thiên Thư viết ra trong một hoàn cảnh đất nước chiến tranh, giữa một xã hội và thời sự đảo điên, lối sống thực dụng băng hoại nên lời thơ muốn thoát đi những dung tục đó tìm về một thế giới yên bình, hạnh phúc đơn sơ gắn bó với thiên nhiên như sông suối, đồi cỏ, mây hồng, triết lý của đạo phật phảng phất trong từng câu thơ, hình ảnh. Những ai yêu thích, say đắm bài thơ Động Hoa Vàng chắc sẽ bất ngờ khi biết nhiều hình ảnh, ý tứ của bài thơ được nhà thơ lấy cảm hứng từ căn gác gỗ ở khu cù lao Phan Xích Long. Hay nói một cách nào đó, khu cù lao Phan Xích Long chính là “động hoa vàng” thu nhỏ của Phạm Thiên Thư thời kỳ đó. Cũng chính nơi đây, ông đã trải qua những năm tháng sáng tác rực rỡ nhất trong cuộc đời mình. Nơi đây còn là nơi cư ngụ của nhiều văn nghệ sĩ như Trụ Vũ, Thụy Long, cũng là nơi lui tới bàn chuyện con chữ thế sự của Phạm Duy, Sơn Nam... Năm 1968, gia đình nhà thơ mua 400m2 đất ở khu cù lao. Rồi ông sáng tác thi phẩm Động hoa vàng với 100 đoạn thơ trong giai đoạn nầy. Mỗi đoản khúc đượcmột tiếng hót của loài dị điểu, sẵn sàng yêu và chết, và để tiếng hót của mình rơi rụng trên giang.

Nói về Phạm Thiên Thư có người nhận xét: “người hiền sĩ ngồi bên lề cuộc sống ta bà, lặng yên thi hóa kinh phật”. Đọc thơ ông, ta tìm thấy những điều phong phú và mới lạ về tôn giáo, tình yêu và thiên nhiên. Giữa một thời đạn lửa, ông bình thản lập cho mình một cõi thi ca riêng: trong trẻo, trữ tình và đậm chất Thiền…

Trước hết Động hoa vàng theo tôi là một bài thơ ...tình chứa đậm rất nhiều thiền ý và gã từ quan trong bài cũng là người hành giả đang lang thang suốt đời luôn đi tìm một tình yêu trong sương khói mịt mù:

Ta về rũ áo mây trôi
Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ lan
Rằng xưa có gã từ quan
Lên non tìm động hoa vàng ngủ say

Cái tình ấy bắt đầu từ việc “ Rằng xưa có gã từ quan. Lên non tìm động hoa vàng ngủ say”, người ta những tưởng cái gã từ quan ấy chán ngán mệt mỏi lắm rồi sự gò bó của chốn quan trường đầy xu nịnh, buông bỏ tất cả lên non tìm sự nhàn nhã thanh thản trong phần đời còn lại của mình nhưng không phải thế, nó lại mở ra một cõi tình mênh mông, nỗi khao khát kiếm tìm tỉnh yêu trong một không gian đầy sương khói mờ ảo và mộng mị. Cái tình trong tác phẩm bàng bạc khắp nơi nhưng đó không phải là cái tình dung tục mà là một bản tình ca đôi lứa, có sự hòa quyện giữa đạo và đời đậm hương vị thiền. Giữa đạo và đời, giữa tình yêu và thiền học những tưởng không thể dung hòa với nhau được thế mà cái nhân vật trữ tình ấy, cái gã từ quan ấy mà tôi gọi đó là một hành giả lại vương vấn ở giữa hai dòng nước đời và đạo, giữa tình yêu trần tục và phật pháp trong bản ngã của mình.

Chẳng vậy mà trong suốt 100 khổ thơ lục bát 4 câu được dành nói về nàng, về nét đẹp của người thiếu nữ trong thơ được Phạm Thiên Thư diễn tả trong nhiều mối quan hệ biến hóa thiên hình vạn trạng, khi thì mờ mờ ảo ảo như sương khói khi thì lồ lộ rất trần thế nhưng không dung tục, ngay từ đầu ta đã thấy:

Mười con nhạn trắng về tha
          Như Lai thường trụ trên tà áo xuân
          Vai nghiêng nghiêng suối tơ huyền
          Đôi gò đào nở trên miền tuyết thơm

Nhà thơ như muốn gởi một thông điệp đến người đọc một cảm thức một tình yêu thi vị đầy thiên tiên, người tình được nhìn,cảm nhận bằng một ngôn ngữ trong veo đầy thiền vị:

 Em nằm ngó cội thu xanh
          Môi ươm đào lý một nhành đôi mươi
          Về em vàng phố mây trời
         Tay đơm nụ hạ hoa dời gót xuân

       Nỗi buồn, nỗi đoạn trường lại được nhắc đến rất nhẹ nhàng:
         Thì thôi tóc ấy phù vân
         Thì thôi lệ ấy còn ngần dáng sương
        Thì thôi mù phố xe đường
       Thì thôi thôi nhé đoạn trường thế thôi”

Đôi khi những kỷ niệm của tình yêu chợt ùa về trong tâm tưởng tạo nên sự hoài niệm khôn nguôi về những ngày xưa cũ nhưng thật tinh khôi:

Nhớ xưa em chửa theo chồng
         Mùa xuân em mặc áo hồng đào rơi
        Mùa thu áo biếc da trời
        Sang đông em lại đổi dời áo hoa

Trong một đoạn thơ khác, Phạm Thiên Thư đã dùng hình tượng con chim để nói lên điều đó:

Con chim mùa nọ chưa chồng
          Cũng bay rời rã trong dòng xuân thu
          Từ em giặt áo đông tơ
         Nay nghe lòng suối hững hờ còn ngâm

trong Động Hoa Vàng ta còn bắt gặp những hình ảnh gần gủi quen thuộc trong điển tích hay trong cổ thi được nhà thơ vận dụng một cách khéo léo nhuần nhuyễn để hiện chủ đích của mình:

Ta về rũ áo mây trôi
          Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ lan
          Rằng xưa có gã từ quan
          Lên non tìm động hoa vàng ngủ say

Đoạn thơ làm ta nhớ đến Từ Thức gặp tiên trong Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữ, chán ngán trước những ràng buộc, gò bó của chốn quan trường mà treo ấn từ quan đi chu du thiên hạ còn ở Phạm Thiên Thư ông có làm quan đâu mà từ, như vậy nó chỉ là một cái cớ, một tiền đề thể hiện quan niệm sống của một tu sĩ có pháp danh Tuệ Không xem đời chỉ là cõi phù vân nên “rũ áo mây trôi” và bắt đầu cái ý tưởng phiêu bồng bằng việc “Lên non tìm động hoa vàng ngủ say” vậy.

Hình ảnh Từ Thức tìm về thiên thai phải chăng được thể hiện qua đoạn thơ đầy biểu tượng nầy:

Chênh vênh đầu trượng thiền sư
          Cửa non khép ải sương mù bóng ai
          Non xanh ướm hỏi trang đài
         Trăm năm còn lại dấu hài động hoa

Ta còn bắt gặp một chút sự giống nhau về tâm thức của nhà thơ trong một đoạn khác:

         Đợi nhau tàn cuộc hoa nầy

         Đành như cánh bướm đồi Tây hững hờ

       Làm ta nghĩ đến Trương Quân Thụy và Thôi Oanh Oanh gặp nhau lần đầu ở chùa Phổ Cưu, ở đồi Tây trong Tây Sương Ký của Vương Thực Phủ. Một số câu thơ khác cũng vậy:

        Tưởng xưa có kẻ trên lầu
        Ngày xuân gieo nhẹ trái cầu gấm hoa

 

        Đường về hái nụ mù sa
        Đưa theo dài một nương cà tím thôi
        Thôi thì em chẳng yêu tôi
        Leo lên cành bưởi nhớ người rưng rưng

 

Ta còn bắt gặp trên bước lang thang tìm Động hoa vàng cho riêng mình, người hành giả ấy đã tự tạo cho mình một cuộc sống hòa vào thiên nhiên để từ đó thấy được niềm vui bất chợt và tâm hồn như được gột sạch bao nỗi buồn phiền:

 

Lên non cuốc sỏi trồng hoa
          Xuôi thuyền lá trúc la đà câu sương
          Vớt con cá nhỏ lòng đòng
          Mải vui lại thả xuống dòng suối tơ


          Một đêm nằm ngủ trong mây
       Nhớ đâu tiền kiếp có cây hương trời
       Cây bưởi trắng ngát hương đời
       Nụ là tay phật chỉ người qua song

         Chính vì thế chất thiền trong Động hoa vàng được nhà thơ thể hiện thông qua nhiều hình tượng, hình ảnh ẩn dụ, phóng dụ như: thông xanh, suối biếc, miền tuyết thơm, suối hoa rừng, thềm trăng, đồi Dạ Lan, miền cỏ hoa, bến hoa tươi...Tất cả những hình ảnh ấy rất đơn sơ, bình dị nhưng thật trong sáng thoát tục. Chúng ta thử điểm qua vài đoạn thơ như thế:

 

   Ta về rũ áo mây trôi
            Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ lan

         Mùi hương hoa trong ấm trà mùa đông:

  Đất nam có lão trồng hoa
           Mùa hoàng cúc nở ướp trà uống đông

thể là cánh hoa dại ven đường mùa đông:

 Bông hoa trắng rụng bên đường
          Cánh thơm thông điệp vô thường tuyết băng

Hay ánh trăng in dấu hài hoa:

  Người về sao nở trên tay
           Với hài đẫm nguyệt thêm dài gót hoa

Hoặc bóng trăng thanh bình nơi thôn dã:

  Bóng trăng tịch mặc hiên nhà
           Thành đàn nảy hạt tỳ bà quyện hương

Bóng hạc nhuốm màu huyền thoại như trong bài thơ Hoàng Hạc Lâu:

  Hạc xưa về khép cánh tà
           Tiếng rơi thành hạt mưa sa tần ngần

 

Mùa xuân trong Động hoa vàng được nhắc đến rất nhiều lần tràn đầy tiếng chim, hương hoa cây cỏ bốn mùa xanh mát, ánh trăng huyền diệu soi mái thề và ngay cả sự hoài niệm cũng mang hơi thở ấm áp nồng nàn của mùa xuân:

  Mười con nhạn trắng về tha
           Như lai thượng trụ trên tà áo xuân

 

 Mùa xuân bỏ vào suối chơi
          Nghe chim hát núi gọi trời xuống hoa

 

  Có con cá mại bờ xanh
           Bơi lên nguồn cội tắm nhành suối xuân
          Giữa dòng cá gặp phù vân
          Hỏi sao mây bỏ non thần xuống chơi

 

Con khuyên nó hót trên bờ
         Em thay áo tím thờ ơ giang đầu
         Nhớ xưa có kẻ lên lầu
         Ngày xuân gieo nhẹ trái cầu gấm hoa

Rượu cũng thể thiếu với gã hành giả lang thang trên đồi cao cỏ biếc, đó cũng là lẽ thường tình được nhắc đến để nhà thơ thỏa mãn cảm hứng đề thơ hay ngâm vịnh, mượn rượu để gởi gấm tình yêu của mình:

Đưa nhau đổ chén rượu hồng
          Mai sau em có theo chồng đất xa


          Qua đò gõ nhịp chèo ca
          Nước xuôi làm rượu quan hà chuốc say

 

Đưa nhau đấu rượu hoa này
          Mai đi dã hạc thành ngoài cuồng ngâm

 

Cửa sương nhẹ mở âm vào
           Lay nghiêng bầu nậm rượu đào trầm ca

 

Lại đem bầu ngọc ra trồng
          Bầu khô cất nậm rượu hồng uống xuân

 

Động nam hoa có thiền sư
          Đổi kinh lấy rượu tâm hư uống tràn

 

Nghiêng ly mình cạn bóng mình
          Tay ôm vò nguyệt một bình mây bay

Đọc Động Hoa Vàng ta cảm nhận nó như một dòng suối chảy miên man trên một triền núi xa xăm đem nước nguồn tinh khiết vun bồi cho đất đai thêm màu mỡ, như một đám mây trôi bàng bạc khắp trời nhiều màu sắc tấu thành một khúc nhạc mong tìm thấy tri âm tri kỷ như Bá Nha Tử Kỳ nhưng thử hỏi trên đời nầy có được mấy người đạt được s nguyện như thế nên người hành giả ấy vẫn mãi lang thang đi tìm Động hoa vàng khắp đầu non cuối bể giống như Từ Thức giầy rơm nón cỏ chống thiền trượng tìm về thiên thai nhưng lối xưa đã che lp dấu giầy của tiên nương mất rồi.

Chênh vênh đầu trượng thiền sư
           Cửa non khép ải sương mù bóng ai
           Non xanh ướm hỏi trang đài
           Trăm năm còn lại dấu hài động hoa

Phải chăng đến một lúc nào đó ta cũng nên đi tìm một ĐỘNG HOA VÀNG cho riêng mình các bạn nhỉ?

 

 *Bên bờ Kênh Tẻ, Quận 7, tháng 10-2020

  NGUYỄN AN BÌNH

 ___________________________________________________________ 

Tham khảo:

-       Tìm “Động hoa vàng” của Đặng Tiến trên tập san Quán Văn số 32

-       Ý nghĩa của bài thơ Động hoa vàng của Nguyễn Mộng Khôi

-       “Động hoa vàng” của Phạm Thiên Thư trên báo Tuổi Trẻ online ngày 5/12/2016

-       Bài thơ Động hoa vàng của Phạm Thiên Thư nhìn từ Văn Hóa Thiền của Hồ Tấn Nguyên Minh.

-       Đến Động hoa vàng gặp “Gã từ quan” của Lê Bá Lư

 


ĐIỂM SÁCH TRÊN TẬP SAN RA KHƠI 5 XUÂN TÂN SỬU 2021

 ĐIỂM SÁCH TRÊN TẬP SAN RA KHƠI 5 XUÂN TÂN SỬU 2021

VỤN VẶT GIỮA ĐỜI, MỘT CHẶNG ĐƯỜNG VĂN HỌC CỦA NHÀ THƠ TRỊNH BỬU HOÀI

Lương Thiếu Văn là một bút danh khác của Nguyễn An Bình dùng cho mục điểm sách trên tập san Ra Khơi kể từ số 5. Số kỉ niệm một năm tập san Ra Khơi chào đời. Bài điểm sách đầu tiên dành cho tác phẩm "VỤN VẶT GIỮA ĐỜI" của nhà thơ TRỊNH BỬU HOÀI - An Giang. 



 

 

ĐIỂM SÁCH

 

VỤN VẶT GIỮA ĐỜI, MỘT CHẶNG ĐƯỜNG VĂN HỌC CỦA NHÀ THƠ TRỊNH BỬU HOÀI

                                                                      

                                                                     . LƯƠNG THIẾU VĂN

       

Trong một ngày cuối năm 2018 tôi có dịp về Châu Đốc cùng anh em văn nghệ của tập san Quán Văn khi ra mắt số Quán Văn chủ đề chân dung văn học Trịnh Bửu Hoài.Trước khi chia tay anh tặng chúng tôi mỗi người một tập tạp bút Vụn Vặt Giữa Đời. Tập sách dày hơn 800 trang do nhà xuất bản Hội Nhà Văn cấp phép. Khi nhận sách tặng tôi thầm nghĩ không biết bao giờ mình mới đọc xong tập tạp bút nầy vì đối với tôi nó quá đồ sộ.

Trong mùa Côvid năm nay, tôi có gởi tặng anh bộ sách thơ phổ nhạc 5 quyển và 2 tác phẩm mới in, anh gởi lại tặng tôi một số tập thơ của anh đã in trong những năm gần đây, điều nầy làm tôi rất vui bởi lẽ khi trở lại văn chương sau nhiều năm ngừng viết có lẽ tôi là người tiếp cận và đọc tác phẩm của anh rất trễ. Đặt mấy tập thơ mới nhận lên kệ sách nơi dành riêng cho các tác phẩm Trịnh Bửu Hoài mà tôi có được từ trước, tôi bắt gặp tập tạp bút Vụn Vặt Giữa Đời ở đó, trong đầu tôi chợt có một suy nghĩ: Sao mình không dùng thời gian để đọc tác phẩm nầy một lần trọn vẹn nhỉ?

Tôi có một thói quen mỗi khi nhận một sách của bạn văn gởi tặng cho mình là đọc lướt qua bằng cách đọc nhảy cóc những bài thơ hay bài văn mà mình cảm thấy ấn tượng sau đó để vào kệ sách và nếu có thời gian sẽ đọc kỷ hơn. Tập Vụn Vặt Giữa Đời của anh tôi cũng đã đọc như thế. Té ra khi bắt đầu đọc kỹ và nghiêm túc, tập tạp bút của anh viết không khô khan như ta tưởng mà nó lại hấp dẫn và lôi cuốn ngay từ đầu bởi những câu văn được viết bằng tình cảm, tấm lòng và sự chân thật không thể nào hơn được.

Như chúng ta biết nhà thơ Trịnh Bửu Hoài yêu văn chương từ nhỏ, cho đến nay anh đã xuất bản trên 50 tác phẩm gồm cả thơ lẫn truyện, tiểu thuyết, du ký, biên khảo... còn thơ văn in chung trong các sách khác thì nhiều lắm khó có thể kể hết được, nói như thế để thấy được việc sáng tác và cống hiến cho văn chương nước nhà của anh đáng nể biết bao nhiêu.

           Đọc Vụn Vặt Giữa Đời của Trịnh Bửu Hoài điều đầu tiên tôi rút ra được anh là một trong những người cẩn thận đối với văn chương đã tập hợp những bài viết về thơ, truyện, tản văn mà anh cho là khá tiêu biểu vào một tập sách. Ngoài ra trong tập sách còn có những bài viết về một nhận định, chuyên đề mà anh tham gia hoặc để ý tới, những bài phỏng vấn của báo chí, nhà phê bình về thơ văn anh. Anh còn góp nhặt những bài viết nhận định về thơ truyện của anh từ các nhà nghiên cứu phê bình có tiếng tăm đến các bạn văn đồng nghiệp, đặc biệt anh rất trân quý những bài viết của lớp trẻ viết về mình, chính điều đó cho ta thấy anh luôn để ý lắng nghe các ý kiến khác nhau về tác phẩm để viết sao cho có tình có nghĩa với con người quê hương đất nước mà mình đang sinh sống tồn tại.

          Tập tạp bút Vụn Vặt Giữa Đời có hai nội dung chính: Phần đầu đề cập đường đến văn chương của nhà thơ Trịnh Bửu Hoài: Những ký ức về thời đi học, mối quan hệ trong gia đình, về trường học, về những người thầy ảnh hưởng đến niềm say mê văn chương của anh và trên hết là năng khiếu của anh sớm bộc lộ từ nhỏ được nhà thơ thủ thỉ tâm tình một cách cởi mở. Trong phần nầy Trịnh Bửu Hoài muốn dẫn dắt người đọc đến việc hình thành niềm say mê văn chương của anh từ đâu mà có; cũng ở phần “Trước khi vào sách” anh tâm sự một cách thật lòng: “Khi bước vào cuộc văn chương, tôi làm thơ, vì mê thơ... Thuở ấu thơ, nghe những lời ru của mẹ; thời tiểu học, học những bài ám đọc; tâm hồn tôi lâng lâng vì những vần điệu ru hồn ấy.”

          Trong bài “Thời tôi đi học” ta bắt gặp một Trịnh Bửu Hoài với một tâm hồn ngây thơ trong trẻo khi để ký ức ngày tháng cũ ùa về khi nói đến những năm tháng thơ dại ấy: nói về cha, ông nội, cô út, ngôi trường sơ cấp Miếu Điền và những người thầy đầu tiên của mình với một lòng thương yêu và chính những mái trường mà anh đã trải qua từ trường tiểu học Mỹ Đức A, trường trung học tư thục Hòa Bình, trường công lập Thủ Khoa Nghĩa. Chính từ ngôi trường công lập nầy tình yêu văn chương của anh phát tiết và bắt đầu được thầy cô, bạn bè biết đến nên dù sau đó vì tình trạng quân dịch anh phải chuyển về Long Xuyên học các trường tư thục như Bồ Đề, Phụng Sự nhưng vẫn không quên tham gia viết báo, làm văn nghệ với các bạn bên trường Thoại Ngọc Hầu như anh kể trong bài “Thành phố Long Xuyên và tôi”

          Hình ảnh những người thầy giúp rèn nên nhân cách tình yêu văn chương cho anh sau nầy như thầy Phan Văn Nhựt, thầy Nguyễn văn Hầu cũng được anh nhắc đến với lòng tưởng nhớ và kính trọng biết bao.

          Tiếp theo tập tạp bút anh chọn lọc những bài tạp văn, du ký, biên khảo ngắn khác để đưa vào tập tạp bút, có lẽ những bài nầy ít nhiều anh chưa đưa vào các tác phẩm mình đã in, hơn nữa nó ghi đậm dấu ấn về một vùng đất đã cưu mang anh từ nhỏ và hình thành một nhà thơ Trịnh Bửu Hoài được nhiều người biết đến như ngày nay. Những kỷ niệm về mối quan hệ khắng khít trong gia đình được anh nói đến trong “Ký ức ngày xuân”. Anh tham gia nhiều cuộc hội thảo, bắt đôi chân mình phải đi không ngừng và ghi chép tỉ mỉ những nơi mình đã đi qua để có những bài du ký, những bài biên khảo có giá trị để giới thiệu đến mọi người về một vùng đất biên viễn miền Tây của đất nước đang từng ngày thay đổi: Một vùng công nghiệp không khói, Người góp phần khai mở nền văn xuôi miền Nam, Một góc nhìn về tiểu thuyết đồng bằng sông Cửu Long, Nét đẹp người Chăm, Đua bò ở Bảy Núi, Châu Đốc tân cương, Tao đàn Chiêu Anh Các, Miếu tiên sư, Thành phố ngã ba sông, Thiên Cấm Sơn, huyền bí và thơ mộng, Vùng đất biên cương có nhiều sản phẩm du lịch trời cho, Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam, một di tích tín ngưỡng dân gian độc đáo của vùng biên thùy Tây Nam bộ...

          Anh còn có các bài viết thể hiện tình cảm gắn bó thân thiết với bạn bè văn nghệ: Những người được anh nhắc đến có thể lớn hơn anh nhiều tuổi như nhà thơ Viễn Phương, nhà văn Mai văn Tạo, Kim Đan, Kiên Giang, Mang Viên Long, Ngô Nguyên Nghiễm hay những người đồng trang lứa như Phạm Hữu Quang, Lâm Tẻn Cuôi, Nguyễn Thành Xuân, Tường Vân, Trung Nguyên, Tô Bửu Lưỡng, Dương Anh Chiến, Thùy Linh Thụy Vũ, Võ Chân Cửu... khi nói về họ anh luôn giữ được niềm tôn kính, thân mật gần gủi một cách chân tình. Chẳng hạn khi nói về Phạm Hữu Quang trong bài: “Giang hồ trong cõi thơ cõi người”  bằng mấy câu chí tình:

“Nhiều người thuộc và thích hai câu thơ trong bài Giang Hồ của Quang:

 ...Giang hồ ta chỉ giang hồ vặt

 Nghe tiếng cơm sôi cũng nhớ nhà.

 Quang viết khiêm tốn vậy thôi, chứ Quang đi giang hồ là giang hồ thiệt. Mê bạn, khoái rượu, thích ăn ngon... quên cả đường về. Quang chịu đi là cạn túi mới quay về.

Tôi vẫn chơi thân với Quang, dù tính cách hai người khác nhau, chỉ có một điều chúng tôi gặp nhau: mê thơ, và biết trọng nhau dù trong hoàn cảnh nào. Quang và tôi vẫn đối xử với nhau một mực như thuở ban đầu.”

Tôi vẫn nhớ như in bài thơ “Bạn tôi” trong bài “Người bạn thơ bạc mệnh” khi anh viết về Lộc Vũ:

Bạn dừng chân phiêu bạt

Về bên bến quê buồn

Quanh năm nghề hạ bạc

Neo đời một khúc sông.

...

“Từ úa vàng tâm sự đến trái tim không già” nói về nhà thơ Kim Đan với bao kỷ niệm khi làm tờ tập san Khuynh Hướng số 1, Giật mình tóc trắng như sương, Mãi mãi những bóng hình, Hương từ góc khuất bay xa, Không thể nào quên, Vĩnh viễn là người phương xa cũng thể hiện những hoài niệm về tình bạn chân thật đậm nét tâm tình biết bao.

 

*

 

Phần hai anh gọi là phần phụ lục gồm hai ý: phỏng vấn và tình văn.

Nói là phần phụ lục nhưng theo tôi nó không kém phần quan trọng khi muốn tìm hiểu về con đường văn chương của nhà thơ Trịnh Bửu Hoài. Để nắm bắt được hai ý nầy tôi nghĩ các bạn nên đọc lại cảm nhận của anh được in trên tai trước và tai sau của bìa sách:

-  Tôi viết để trút tâm sự của mình lên trang giấy, để chia sẻ cảm xúc với những người đồng cảm, để đem cái đẹp mình cảm nhận được đến với mọi người.

-  Tôi làm thơ là để giãi bài nỗi lòng của mình. Một phút trải lòng trên trang giấy tôi thấy mình được sống thêm một chút trong đời sống tinh thần; thả được nỗi buồn xuống trang giấy thấy lòng mình nhẹ đi...Tôi làm thơ bằng cảm xúc, nên trước hết thơ là của riêng tôi, sau đó thơ sẽ là của những ai có sự “gặp gỡ” với nỗi niềm của tôi. Mỗi người làm thơ đều có độc giả của riêng mình. Không thể làm thơ bằng “trái tim tập thể” để cầu mong có số lượng độc giả là “mọi người”.

-  Thời đẹp nhất của mỗi người rồi cũng qua đi, ta hãy sống hết mình bằng trái tim cháy bỏng để sau nầy không phải quá nhiều luyến tiếc...

-  Với nghề: “Với tôi, nghề văn cũng như mọi nghề khác trong xã hội, chỉ khác nhau ở chức năng mà thôi. Nghề nào cũng có nhân cách và tài năng. Ai giỏi nghề thì đắt khách. Ai có lương tâm thì tồn tại.” Trong văn chương lòng đố kỵ luôn làm cho con người trở nên thấp kém và cũng tự hủy hoại sự nghiệp mà mình đeo đuổi. Bản thân tôi cũng bị những kẻ như thế làm hại mình nhưng mình vẫn đứng lên được trên đôi chân của mình.

Và trong bài viết ngắn “Trước khi vào sách” anh có viết: “Tôi là người cẩn trọng giữ gìn bản thảo không những của mình mà của cả bạn bè... Và tôi cũng rất cảm động khi đọc lại những bài bạn bè, đồng nghiệp viết về mình dù những nhận định, cảm xúc chủ quan hay khách quan, dù chính xác hay không, tôi đều trân trọng tấm lòng bè bạn, đồng nghiệp đã dành cho mình, xem đó là những động lực quí báu, những việc làm đầy ý nghia góp sức cho tôi đi tới con đường dài không bến đỗ. Tôi cũng xin đưa vào tập sách nầy trong phần phụ lục như một kỉ niệm trong đời cầm bút , dù nó rất riêng nhưng cũng không có gì quá đáng khi được mọi người chia sẻ”

 Ở điều nầy thì tôi rất đồng tình với ý kiến của anh, nên khi đề cập tôi chỉ xin được trích dẫn một số lời phỏng vấn hay cảm nhận về tình văn của đồng nghiệp, bạn bè dành cho anh mà không thêm thắt hay chen vào ý kiến riêng của mình để nó khách quan hơn.

  Phần phụ lục phỏng vấn ta bắt gặp một số tên tuổi thân quen trên văn đàn như: Đynh Trầm Ca, Đoàn Thạch Biền, Phạm Chu Sa... Cho thấy độc giả dành thiện cảm cho anh rất nhiều, lứa tuổi tìm đọc sách của anh được lớp trẻ đọc nhiều hơn người lớn, tôi cho đó là một thành công của anh và anh lí giải về điều nầy: “Tôi viết về đề tài tình yêu... Tôi đã sống trong thế giới tình yêu từ thời học sinh, và đó là thời đẹp nhất của đời tôi, nên đã có ít nhiều ảnh hưởng đến trang viết của mình. Trong tiểu thuyết của tôi thường có những chương thuần túy tình yêu, mơ mộng, mô tả những cảnh đùa vui, vô tư của tuổi trẻ. Độc giả lớn tuổi cho rằng những đoạn nầy không cần thiết, nhưng các bạn trẻ thì rất thích. Tôi nghĩ, văn học không chạy theo thị hiếu, nhưng không thể không cần độc giả.”

  Cũng qua các bài phỏng vấn ta bắt gặp một Trịnh Bửu Hoài suy tư về sự phát triển của văn chương, về vùng đất mà anh khi đó với cương vị chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh An Giang trả lời nhà văn Đoàn Thạch Biền đăng trên tập san Áo Trắng số 61, tháng 3-2002: “Để có lực lượng kế thừa, chúng tôi luôn quan tâm phát hiện và bồi dưỡng các cây viết từ cơ sở, trong đó nguồn lớn nhất là trong trường học. Chúng tôi đã tổ chức giải thưởng văn chương Thủ Khoa Nghĩa hằng năm trong các trường trung học, hiện nay đang phát động giải lần thứ 9. Qua giải nầy chúng tôi đã có một số cây viết trẻ triển vọng và đang trưởng thành như: Trí Tính, Ngọc Diệp, Trương Thị Thanh Hiền, Đặng Ngọc Kiều Oanh, Nhâm Quí Phương... Câu lạc bộ Văn thơ của trường đại học An Giang đã có nhiều buổi giao lưu với văn nghệ sĩ của hội. Chúng tôi dự định sẽ liên kết với trường để in tuyển tập thơ văn của sinh viên.”

  Và anh đã có lời nhắn gởi đến các bạn đọc Áo Trắng khi phóng viên Hồ Quốc Nhạc đề cập đến mà tôi nghĩ cũng là lời nhắn gởi chung đến lứa tuổi học sinh đang tràn đầy sức sống có những ước mơ đang ấp ủ thực hiện: “Tôi xin nói riêng với các bạn đang mặc áo trắng, đang sống trong tuổi hoa niên: Thời đẹp nhất của mỗi người rồi sẽ qua đi, các bạn hãy sống hết mình bằng trái tim cháy bỏng để sau nầy không quá nhiều luyến tiếc...”.

  Trong phần phụ lục 2 Tình Văn: Đây là phần nhà thơ Trịnh Bửu Hoài góp nhặt lại những bài viết về thơ, tiểu thuyết, bút ký, biên khảo của anh... được các nhà nghiên cứu phê bình, các bậc đàn anh, bạn đồng nghiệp, ngay cả các bạn viết trẻ đang tập tành vào văn chương anh cũng trân trọng đưa vào, bạn đọc có thể thấy ở bìa sau của tập tạp bút nầy nhà thơ Trịnh Bửu Hoài đã lược trích những nhận định về thơ văn của anh của các nhà thơ, nhà văn có mối quan hệ gắn bó với anh nhiều năm nay, nên ở phần nầy tôi cũng chỉ làm công việc của người trích dẫn lại những lời nhận định khác còn lại nhằm làm nổi bật thêm tình cảm và những nhận định khác về văn chương của Trịnh Bửu Hoài mà thôi:

          - Theo Lục Tùng: Thơ Trịnh Bửu Hoài thường nhẹ nhàng như tiếng sương buông, như hồn thu phả vào hồ tĩnh lặng... nhưng gợi cho ta những bất ngờ thi vị:

Một vầng trăng

Rụng xuống đồi

Cỏ năm giếng nước

Cùng phơi bóng vàng

Một mình em

Giữa nhân gian

Có nghìn giếng mắt

Cũng mang nỗi buồn

(Ngũ Hồ Sơn)

          - Hồ Ngọc Mân cũng có nhận xét khá hay về thơ thiếu nhi của Trịnh Bửu Hoài qua bài viết “Thơ cho tuổi thơ của Trịnh Bửu Hoài”:

“Thơ thiếu nhi của Trịnh Bửu Hoài mang được chất tươi trẻ, hồn nhiên, trong sáng, nhí nhảnh của tuổi thơ. Bằng hình ảnh chân thực thiết tha của một thanh niên đối với các em thiếu nhi, Trịnh Bửu Hoài đã sáng tác được nhiều bài thơ hay.”

          - Nguyễn Thanh Nhã có nhận định về truyện, du ký của anh:

 “Ngoài thơ, tôi cũng đã đọc một số truyện dài, truyện ngắn, du ký của Trịnh Bửu Hoài như Tình yêu trong veo, Mùa hội vía, Non nước Hà Tiên. Về lĩnh vực nầy anh cũng có biệt tài với lời văn ngắn gọn, bố cục chặt chẽ dễ cuốn hút người xem và nhất là ý tưởng trong sáng trong cốt truyện, gần gũi đời thường không xa rời thực tế.”

(Nhà thơ Trịnh Bửu Hoài, người con của vùng đất trù phú An Giang)

-Trong bài “Vài cảm nghĩ khi đọc Thơ thời áo trắng của Trịnh Bửu Hoài” của Lê Minh tôi bắt gặp cảm nghĩ đồng điệu: “ Thơ thời áo trắng của Trịnh Bửu Hoài có sức truyền cảm lạ lùng: vừa nhẹ nhàng vừa sâu lắng. Tập thơ chẳng những hấp dẫn  người đọc bằng hình thức trình bày trang nhã, tươi tắn mà suốt 45 bài thơ đã tỏa ra một cảm tình dạt dào, long lanh, trong sáng. Nói cách khác, toàn tập thơ được ướp toàn một chất men tình đằm thắm, dễ làm say đắm lòng người.”

          -Trong bài “Trịnh Bửu Hoài, nguồn thơ như dòng chảy êm đềm, bất tận của những nhánh sông rạch đồng bằng, hiền hòa và long lanh vẻ đẹp”,  Nguyễn Lang Quân cũng có nhận định về thơ tình của anh: “Thơ tình của Trịnh Bửu Hoài là một nhịp thở nhẹ nhàng, đầm ấm, ngát hương tình ái. Với tình yêu, anh không có thái độ thống thiết kêu gào, hay bi lụy, thở than, mà lúc nào anh cũng nhìn người tình qua ánh mắt long lanh của một kẻ tình si đầy ngưỡng vọng”.

          Nhà thơ trẻ Vĩnh Thông khi cảm nhận về tập thơ Ký ức của anh cũng có lý lẽ riêng của mình: “... Có lẽ tập thơ Ký ức là một tác phẩm khá ấn tượng trong số “gia tài” văn chương của Trịnh Bửu Hoài tính đến nay. Ấn tượng bởi một lẽ, tập thơ đầy tâm sự, hoài niệm với quê hương, với bạn bè, với những vùng đất mà tác giả đã đi qua trong hơn nửa đời người, đúng như tên của nó: Ký ức.”

          Nói thật lòng nếu nhà thơ Trịnh Bửu Hoài không xuất bản quyển tạp bút Vụn Vặt Giữa Đời thì những người yêu văn thơ của anh có thể không nghĩ đến những tác phẩm của anh xuất bản được nhiều đến thế, anh có thể phóng bút viết nhiều thể loại từ thơ, truyện ngắn, bút ký, du ký, biên khảo mảng nào anh cũng để lại những dấu ấn đậm nét khó phai, nhưng anh vẫn luôn trung thành với một thể loại gắn bó với anh từ thời đi học: đó là thơ. Đối với tôi, thơ Trịnh Bửu Hoài, dù sáng tác qua rất nhiều thời gian khác nhau, trải qua nhiều biến thiên của thời cuộc, tuổi tác vẫn luôn luôn trong trẻo, hồn nhiên, dòng thơ của anh như một dòng chảy chuyên chở phù sa màu mỡ tưới mát cho cánh đồng văn chương chữ nghĩa mang đậm tình yêu quê hương, tình người, tình bạn, mang đậm nét hiền hòa hồn hậu người dân miền Thất Sơn một thời là vùng biên viễn xa xôi của đất nước.

   Và người quan tâm có thể khái quát sự nghiệp văn chương của anh qua các bài phóng vấn, những bài cảm nhận, phê bình nghiên cứu các tác phẩm văn học của anh qua ngòi bút của các bạn văn gần xa từ Bắc vào Nam, như vậy Vụn Vặt Giữa Đời chẳng phải là một tác phẩm cần thiết đối với những ai yêu văn thơ của Trịnh Bửu Hoài hay sao?

Bên bờ Kênh Tẻ, tháng 11-2020

LƯƠNG THIẾU VĂN