GIỚI THIỆU TẠP CHÍ THƯ QUÁN BẢN THẢO SÔ 94- THÁNG 8-2021 HOA KỲ
NGUYỄN AN BÌNH GÓP MẶT VỚI BÀI NHẬN ĐỊNH "TRĂNG VÀ NỖI CÔ ĐƠN BẤT TẬN TRONG HÀNH TRÌNH THƠ CỦA HẠC THÀNH HOA"
CẢM
NHẬN VỀ TẬP THƠ “CHỈ CÒN NHỮNG NGÀY CHỦ NHẬT”
TRĂNG
VÀ NỖI CÔ ĐƠN BẤT TẬN TRONG HÀNH TRÌNH THƠ CỦA HẠC THÀNH HOA.
*NGUYỄN AN BÌNH
Nhận được tập thơ “Chỉ Còn Những Ngày
Chủ Nhật” của nhà thơ Hạc Thành Hoa ký tặng khi tôi đến thăm anh ở căn nhà nhỏ
ở Bình Thạnh tôi rất vui và xúc động bởi lẽ khi quyết định in tập thơ nầy anh đã
bước qua lứa tuổi 80 nhưng tâm hồn thơ của anh vẫn mải miết xuôi về biển lớn dù
bây giờ dòng sông thơ ấy chỉ còn lững lờ trôi một cách chậm rải thong dong từ
lâu lại có lúc nghẻn dòng không còn ào ạt và tràn đầy phù sa lấp lánh như thuở
nào nhưng điều đó cũng thật đáng mừng vì từ lâu sức khỏe của anh không được
tốt, đi đứng lại khó khăn nên anh đã thưa viết cũng như gởi bài tham gia trên
các trang văn học nghệ thuật, các báo mạng thân thiết.
Nhà thơ Hạc Thành Hoa tên thật
Nguyễn Đường Thai, sinh năm 1938, sinh quán tại Xuân Phổ, Thọ Xuân, Thanh Hóa,
sống bằng nghề dạy học, Hạc Thành Hoa làm thơ từ những năm đầu thập niên
60 của thế kỷ trưước, có nhiều thơ đăng trên
các báo, các tạp chí văn học thời danh trước năm 1975. Tính đến nay anh đã xuất bản được 6 tác phẩm thơ. Ngoài tập “Chỉ Còn Những
Ngày Chủ Nhật”mới xuất bản anh còn có 5 tập khác là: Trong Nỗi Buồn Vàng(Nxb
Nguyễn Đình Vượng-1971), Một Mình Như Cánh Lá(Nxb Giao Điểm 1973, Thư Ấn Quán
tái bản 2006 tại Hoa Kỳ), Phía Sau Một Vầng Trăng(Nxb Thanh Niên-1995), Khói
Tóc(Nxb Lao Động-1996), Tuyển Tập Thơ Hạc Thành Hoa(Nxb Văn Học-2013) được công
chúng yêu thơ đón nhận.
Có thể nói tập
thơ Chỉ Còn Những Ngày Chủ Nhật là tập thơ thay thế cho tập Những Vần Thơ Màu
Huyết Vụ mà anh dự định ra mắt sau tập Tuyển Tập Thơ Hạc Thành Hoa in năm 3013 lúc
còn ở Cao Lãnh nhưng vì một lý do nào đó anh không thực hiện được, đến lúc chuyển
về sống ở Sài Gòn được sự động viên của bạn bè văn nghệ và sự giúp đở tích cực thực
hiện bản thảo của anh Đặng Châu Long và cô em gái Ngô Thị Mỹ Lệ cùng nhà in của
anh Nguyên Minh mới được xuất bản. Tác phẩm nầy gồm nhiều bài thơ mới anh làm
chưa có điều kiện phổ biến đồng thời tập thơ cũng đưa vào một số bài thơ anh
yêu thích đã in trong các tập thơ trước đánh dấu một chặng đường thơ của anh,
theo lời nói đầu của sách có lẽ cũng là tác phẩm thơ sau cùng của anh được ra
mắt bạn đọc, bản thân anh nhận biết mình thực sự mình đã mệt mỏi và sự hưng
phấn trong việc tìm tòi, sáng tạo, dấn thân vào thi ca thời trẻ trải qua bao
biến động của thời cuộc và những khó khăn của cuộc sống không còn làm cho anh
thích thú và cạn dần đi niềm đam mê. Điều đó cũng dễ hiểu và ta có thể thông
cảm với tâm trạng của anh hiện tại nhưng dù sao ta cũng vui mừng chúc đứa con
tinh thần của anh ra đời trong sự đón nhận nồng nhiệt của anh em văn nghệ. Tập
thơ chỉ dày khoảng 140 trang với gần 60 bài thơ, thêm phần phụ lục có 3 bài thơ
của bạn văn viết về anh là Cao Thoại Châu, Vũ Hữu Định, Nguyễn An Bình và 1 bài
viết cảm nhận về tập thơ của nhà văn Đặng Châu Long.
Đọc Chỉ Còn
Những Ngày Chủ Nhật điều đầu tiên chúng ta nhận ra hình ảnh trăng là một thực
thể bàng bạc tồn tại trong suốt hành trình thơ của anh. Trăng trong thơ anh vừa
là bóng gắn liền với hình, vừa là người tình không chân dung, vừa là người bạn gắn
bó để anh gởi gấm nỗi niềm, tâm sự của mình mà không ai có thể quấy rầy cái
không gian riêng tư anh luôn tìm kiếm trân trọng, chẳng phải các nhà thơ trước
anh và sau anh ai mà không ít nhất một lần mượn hình ảnh trăng để bày tỏ tấm
lòng tri kỷ: Lý Bạch uống rượu say nhảy xuống sông ôm trăng mà chết, Hàn Mặc Tử
muốn bán trăng trong tâm hồn điên loạn của mình là gì... Bước chân của Hạc
Thành Hoa không biết bao nhiêu lần theo dấu trăng soi bên bờ giậu, ngồi mơ mộng
dưới ánh trăng vàng, trên sân thượng giặt áo chờ trăng lên, trong quán cà phê
màu vàng, khi không còn biết nhớ đến ai, chan chứa nỗi buồn mênh mông trong đêm
nguyệt tận, đôi khi cho rằng chỉ tại một vầng trăng suông. Nỗi lòng ấy, tâm
trạng ấy đầy vơi như con nước lớn ròng, như mưa khuya chan hòa cùng nắng sớm,
như ngọn sóng đùa trên dòng biển xanh dù đôi lúc có những cách ngăn không đáng
có.
Trăng thành nước lạnh xối trên da
Vàng phai từ độ bóng nguyệt tà
Những đêm mặt đất hoang vu quá
Một bóng ta dài xa rất xa.
(Ngồi dưới
trăng tan)
Đối với nhà
thơ,Trăng cũng có một tâm hồn, cũng biết thương biết nhớ, biết thao thức như
người thiếu phụ chờ chồng trên bến sông mà ngày về thì vô định:
...Chỉ thương tình một nhánh sông
Người đi là để cả dòng nước đau
Đêm thao thức dưới chân cầu
Nhìn trăng thiếu phụ ôi sầu mênh mang.
(Trăng thiếu
phụ)
Vẩn vơ nỗi sầu
mênh mang trong một đêm trăng phơi áo như phơi cả nỗi quạnh hiu của một kiếp
người:
Cố thức giặc cho xong quần áo
Ngậm ngùi vắt những ánh trăng trong
Trăng theo nước chảy về vô tận
Từng giọt trăng dư rụng xuống lòng.
Đêm nay phơi áo trên sân thượng
Phơi cả đời ta giữa quạnh hiu
Phơi cả hồn ta trong sương lạnh
Một trời trong vắt bóng trăng treo”
(Đêm trăng phơi
áo)
Chẳng thế mà nhà văn
Đặng Châu Long trong bài viết cảm nhận cho tập thơ mới “Chỉ Còn Những Ngày Chủ
Nhật” anh đã có nhận xét khá hay đầy góc cạnh: “Với
Hạc Thành Hoa, người đọc có thể cảm nhận trăng ở quanh anh.Với tôi, tôi lại
thấy trăng chỉ là một người bạn đường cho anh gởi gắm nỗi cô đơn giữa nỗi đời
bất động này, Trăng di chuyển quanh đời anh, quấn quít cùng anh, ra dáng vô
tình như một cái nhếch mép trên môi Ca Diếp, từ đó nụ hoa vô thường đã tình cờ
dịu tỏa :
Một
vầng trăng từ đêm ấy nhô lên
Biển
nở một đóa hoa vàng rực
……….
Trên
bãi cát lõa thể
Tôi
cõng trăng chạy suốt đêm
Biển
tràn ngập trong tôi đêm hôm ấy
(HTH, trăng biển)”
Với nhà thơ Trần Hoàng Vy trăng
trong thơ Hạc Thành Hoa lại là vầng trăng huyễn mộng: “Là vầng trăng cố
xứ hay quê người, của một thời đam mê huyễn mộng cùng trăng, dầu là “một vầng
trăng héo” song người thơ, cùng với câu thơ vẫn cứ “thẩn thơ trôi trong
bóng nguyệt hoang đường” (trang 17). Thơ và người thơ Hạc Thành Hoa vẫn
luôn khẳng định: “Có lúc chẳng biết mình là ai nữa/ Vẫn mang theo vầng trăng
ở trong lòng…” (trang 53), mà trăng thì ai cũng thích nhìn và ngắm…”.
Nhà văn Nguyễn Lệ Uyên có một
thời gian sống khá dài bên Hạc Thạnh Hoa ở Sa Đéc nên những ngóc ngách trong
thơ Hạc Thành Hoa anh tường tận biết rất rõ, anh viết một bài khá dài và kỹ lưỡng
về trăng trong hành trình thơ của Hạc Thành Hoa từ trước 1975 và cả giai đoạn
sau nầy:
“Có thể nói, cả 4 tập thơ đã ấn hành của ông luôn thấp thoáng
Trăng là Nguyệt là màu vàng rụng xuống hồn ông. Có cả hàng chục tựa bài thơ và
hàng trăm câu thơ dát bóng trăng lạnh xa gần chiếu dọi như là những nỗi niềm
trải dài, che kín cả một màu chia ly ở đôi bờ khắc khoải, nhớ nhung. Chừng như
với ông, Trăng là nỗi ám ảnh một kiếp lưu đày, là nguyệt vàng nhuốm màu thời
gian trước và sau của những mất mát, tìm kiếm, khao khát… vây phủ cả đời cuộc
ông vậy. Trăng với ông là mối tình câm lạnh. Nguyệt vàng trăng là tâm cảm triền
miên những con sóng vỗ vào bờ đá “tình người”:
Tình người bờ đá trăm năm
Sóng tình tôi cuộn trên dòng nước trôi.
(Trên bờ
đá tình người)
..................
Khoảng
thời gian ấy, không bao giờ những vò rượu Lai Vung, Lấp Vò nhấn lút được những
câu thơ từ chốn sâu thẳm tâm hồn ông tha thướt bước ra như một thiếu nữ khuê
các. Nàng đẹp đến não nùng. Nàng Lục Bát của ông khoác áo màu hoàng yến tắm
trăng. Mảnh xiêm y rơi nhẹ. Trăng ướt đẫm nàng, ve vuốt nàng rồi trần truồng
phơi ra những thiên hà ngập ngừng bên cạnh con nước sông Tiền lên xuống.
Bên kia con rạch là Trăng vàng và bên này là nhà thơ, để
trăng chụp úp lên thơ, quấn quít nhau hơi thở dồn dập của đôi tình nhân.
Một đời con suối lang thang
Mây thu cánh mộng trong khoang thuyền tình
(Vàng đôi
cánh biếc)
Màu
trăng lạnh huyễn hoặc kia chừng như không bao giờ rời xa ông, chỉ vì nó thật
gần, cách nhau bằng tiếng thở của con sóng nhỏ lăn tăn, cách nhau chỉ mấy bước
chân ngập ngừng, nửa quen nửa lạ. Lúc trăng xa, ông ngỡ như gần. Lúc trăng ẩn
nấp đâu đó trong khoảng lặng của thời gian thì ông tưởng như Trăng đã Vàng
Nguyệt rời xa ông mãi mãi, khiến ông sợ hãi cái thời khắc kinh khủng kia, thời
khắc của mộng mị và những ảo giác mệt nhoài trong cơn mê lú, để, khi tỉnh lại,
nỗi trống vắng càng lồ lộ như cảnh “người đàn bà ngoại tình” của Albert Camus
trên terrasse quán trọ vùng sa mạc cận Alger, một mình, hoàn toàn cô độc. Nếu
như người đàn bà của Camus cô đơn giữa bầu trời đầy sao trong đêm sâu thăm thẳm,
thì ông, Hạc Thành Hoa bị người tình là Trăng vàng Nguyệt kia quay gót, bỏ lại
cái hình hài thực giữa muôn trùng giun dế về đêm.
Hồn từ giã biệt cơn mê
Trăng đi bỏ lại bốn bề quạnh hiu
Đèn lu lòng ngại không khêu
Sợ trăng lên cánh rừng treo áo vàng
(Trong
cánh rừng thiên thu)
.........................................
Ông yêu tha thiết cái màu vàng trăng là nguyệt kia đến độ
gần như phát cuồng
Có con rắn lục nằm trong lá
Rít một hơi dài lạnh buốt xuân…
Trăng bỏ người đi đêm nguyệt tận
Ly rượu hề môi chạm tảng băng…
Ai mang áo lụa vàng năm ấy
Mỗi cánh mai giờ một nỗi đau
(Đêm nguyệt tận)
Ông
viết bài này năm 1990 bằng những hồi tưởng về một nỗi đau, mất mát đã ám
suốt cuộc đời như lớp bồ hóng đen bóng trên gác bếp. Ông như một người chiến
binh ngoài mặt trận, đang ngã ngựa. Bóng trăng đã xô ông té nhào đến thê thảm:
Ta chẳng còn là mây mùa thu trước
Em không còn là trăng của thu xưa
(Lại một
mùa mưa sắp đến)
Không,
rõ ràng ông không là một Hàn Mặc Tử thứ hai để say trăng, để điên vì trăng. Bởi
màu trăng của Hàn Mặc Tử là màu trăng huyết, nhuốm đỏ cả khung trời, trước mắt
nhà thơ. Đó là những cơn đau đớn vật vã đến cuồng loạn. Còn trăng của Hạc Thành
Hoa là màu trăng của “Áo lụa Hà Đông, là trăng hoàng yến, là cánh mai vàng… Nó
có đó, thật gần trong cái với tay nhưng lại vô cùng xa cách để cuối cùng, màu
Nguyệt vàng Trăng ấy biến những khoảng cách nồng nàn kia trở thành những cơn
mộng huyễn. Ông đuổi bắt, tìm kiếm hình bóng lay lắt có không kia đến mỏi mòn…
Ông đi tìm bóng, mỏi mòn tìm bóng
đến hụt hơi.
Ông say mộng chỉ vì say nhan sắc màu trăng, theo ngày tháng
đã tẩm liệm hồn mình.
Ông say trăng trong cõi mộng mị ta bà suốt những năm tháng
dài.
Cuối cùng ông say thực:
Thức ăn và rượu đều ra hết
Còn lại trong ta một nỗi buồn
Nỗi buồn lớn quá xô ta ngã
Nằm dài như xác chết chưa chôn
(Cơn say
tuyệt vời)”
*
Bên cạnh người bạn trăng mà ta vừa nhắc đến, nỗi cô đơn cũng là
người bạn đồng hành trong suốt cuộc hành trình thơ của anh, nó tràn ngập khắp
nơi vây kín anh, nỗi cô đơn làm anh sống trong cơn đồng thiếp, giữa mộng và
thực, trong ngọt ngào lại xen lẫn cay đắng, trong đau khổ lấp lánh niềm vui ẩn
nắp đâu đó mà nhà thơ không thể nắm bắt được:
...Bên đường anh đang trú mưa
Giá mà có em
Thì trận mưa sẽ dễ thương biết mấy
Sài Gòn sẽ dễ thương biết mấy
Và anh...
Vẫn đứng đây trú mưa
Như mười mấy năm về trước
Dưới hàng bông giấy nầy
Chỉ có cổ họng khô
Còn tất cả đều ướt
(Nói với mình
trong khi trú mưa)
Hình ảnh người
thổi saxophone một thời tiếng kèn vang dội, hấp dẫn biết bao nhiêu người nghe
trên sân khấu bây giờ lại tàn tạ đáng thương trong sự già nua cô độc biết
nhường nào:
Bây giờ chỉ còn anh chỉ còn anh
Một hơi thở mòn
Bên chiếc kèn hỏng hóc
Anh khóc
Khóc cho sự bất lực của tuổi tác
Cây kèn khóc
Khóc cho sự hủy hoại của thời gian
Chằng còn gì chẳng còn gì
Ngoại chiếc bóng dưới chân
(Người thổi kèn
saxaphone)
Ai là người có
thể chia sẻ niềm vui nỗi buồn, ai là người đợi chờ mình trở về trong đêm tàn
mưa lạnh, ai là kẻ rong chơi quên lãng tháng ngày, không có ai, chỉ có mình đối
diện một mình với biển:
3- cứ ngỡ đang chia sẻ niềm vui với người
biển dạt dào sóng vỗ
biển nồng nàn với từng đợt sóng
hôn mãi hôn mãi lên bờ cát
có biết đâu những giọt mưa
những giọ mưa đang thầm rụng trên môi một người
trong một đêm với biển
(Một đêm với biển)
Thơ anh có sự
liên tưởng kỳ lạ về số phận con người gắn với con tàu “mở mắt ra thấy con tàu
chạy xuôi, nhắm mắt lại thấy con tàu chạy ngược” thì kết quả cũng chỉ là chia
xa, đổ vỡ:
“2- tôi nhắm mắt hình dung
giữa đám đông
như hai chiếc bóng
mình ôm nhau như đôi tình nhân
lâu ngày gặp lại
ôm chặt lấy nhau như đôi tình nhân
vì sợ mất nhau
nhưng nào có giữ được nhau
vì mỗi chúng ta đều gắn với một con tàu”
(Trong toa tàu
số 1)
Đứng trước sông
nước bao la, buổi chiều tà đang dần xuống, cánh chim cô độc đang bay về hướng
trời xa, người ta có thể cảm nhận được nỗi cô đơn ấy qua nét hiu quạnh của bến
nước dìu hiu, sương mờ nhân ảnh:
Chín năm chim đậu bến người
Thu đôi cánh biếc lạn ngoài rừng mơ
Đáy sông in bóng trời mờ
Nước lên mấp mé đôi bờ quạnh hiu
Tôi còn lại được bấy nhiêu
Bến hoang vu lạnh những chiều tàn đông.
(Nỗi hiu quạnh
của dòng sông)
Ngoài kia từng cánh mai vàng nở
Én bay rợp cả một trời xuân
Ta nằm co rút trong chăn mỏng
Kín đầu không kín nổi đôi chân.
Ba ngày lâm bệnh không giọt nước
Đôi môi như một cánh hoa khô
Thăm ta đôi lúc cơn gió lạnh
Thổi tạt mùa đông xuống đáy mồ.
(Ngày xuân trên
giường bệnh)
Nhà thơ Trần
Tuấn Kiệt nhận xét sự cô đơn trong thơ Hạc Thành Hoa:
“Hạc Thành
Hoa vẫn làm thơ lục bát, vẫn ngồi trước hàng hiên của mình để làm thơ, cái hàng
hiên hay cái hành lang đó được Hạc Thành Hoa ghi nhận :
Riêng nghĩ mình là chiếc lá bay
ngoài phố đêm thì đìu hiu đơn độc thật. Tâm hồn Hạc Thành Hoa như thế đó. Thơ
anh toàn các cảnh u hoài khá buồn, khá cô đơn. Dù người ta nói cô đơn của thiên
tài : “Cô đơn là
một hình tượng của con người cao vời vợi trong niềm kiêu hãnh vô song.”
... Ta hãy
đọc bài Bến sương mù :
Chỉ có sương là sương thế thôi
Bến xa như lẫn với mây trời
Phà đưa ta trở về bên ấy
Một bóng trăng chìm giữa nước trôi”
Mặc dù thơ Hạc
Thành Hoa phần lớn sử dụng thể thơ truyền thống như thơ năm chữ, bảy chữ, lục
bát... để thể hiện nhưng khi tìm hiểu thêm tôi lại khám phá ra anh đã cố gắng
tự làm mới mình với những bài thơ tự do chẳng hạn như trong tập thơ nầy có hơn
10 bài và ngay cả loại khó nuốt như thể tân hình thức anh cũng thử thể nghiệm.
Tôi đã bắt gặp một bài thơ của anh trên trang Tân Hình Thức Việt viết khá lâu
khoảng 2010 thì phải:
Bất ngờ rớt xuống từ
những đám mây màu chì
tích tụ khỏi đèn bao
nhiêu năm như sao rơi
sao rơi in trên cát
những đóa quỳnh không thực
tôi bàng hoàng khi chạm
vào những hạt mưa chạm
vào sức nóng đôi môi
chạm vào cái lạnh bầu
trời ôi những viên kim
cương bảy sắc cầu vồng
vừa chạm vào tay đã
vội tan thành nước chỉ
còn một bàn tay một
bàn tay đang khóc.
(Những viên kim
cương của bầu trời)
Nhưng thể thơ
vắt dòng nầy không phải ai cũng thích, người khởi xướng nó luôn tìm mọi cách hô
hào và lôi cuốn người khác tham gia nhưng xem ra loại thơ nầy hình như không
hợp với thể tạng của anh và với nhiều người làm thơ Việt khác nên tôi không
thấy anh viết thêm bài nào nữa.
Thử đọc một
đoạn thơ tự do của anh cũng thấy lạ cho sự cách tân đổi mới trong anh:
1- đó là chuyện một đôi dép
gắn với một chuyện tình thời trẻ
của cô gái có đôi mắt său thẳm lấp lánh như sao
và cái nhìn như chạm trái tim người
chàng trai ở một căn nhà
mà mọi ngày hị có thể nhìn thấy nhau
nhiều lần cô đã nhìn chàng bằng đôi mắt đó
đôi mắt có màu thép biếc
nhiều lần trái tim chàng
là trái tim chín rục
là trái tim bị trúng tên.
(Đôi dép và
chuyện tình)
Cái tình trong
thơ của Hạc Thành Hoa rất dào dạt, đằm thắm nhưng không kém phần mãnh liệt, nhớ
nhung nhưng không quá yếu mềm ủy mị, gắn bó nhưng không xa cách, đôi lúc trầm tư
lại không tuyệt vọng mơ hồ,... là nhà giáo nên ý tứ, lời thơ anh luôn biết chọn
lọc, tiết chế diễn đạt trong sáng mẫu mực, sự bức phá trong thơ Hạc Thành Hoa
không nhiều nhưng chúng ta đòi hỏi chi quá đáng với một nhà giáo yêu thơ như
thế:
Mắt sầu theo những đường xe
Mây đi rồi cũng trôi về vấn vương
Xa nhau khi mộng chưa tròn
Tình tôi em giữ để buồn tôi mang
Từ tim đã biết yêu đàn
Anh vừa dựng một lầu vàng tin yêu.
(Bài thơ cho
em)
Ngay cả trong
bài thơ Chỉ Còn Những Ngày Chủ Nhật đọc lên thấy thật buồn, khi con người ta
không còn có khái niệm thời gian thì ngày nào cũng như ngày nào, ngày nào cũng
là ngày chủ nhật để thấy ta nhàn rỗi, thấy ta vô ưu, thấy ta trông ngóng một
ngày đi về một nơi vô định nào đó không cần giấy thông hành thì cái tình ấy lại
rất mỏng manh:
1- Bây giờ ngày nào cũng là Chủ nhật
nên quên mất thứ Hai, thứ Ba, thứ Tư...
thời gian không còn là của mình
mỗi ngày qua là một ngày phải chờ đợi
lúc đến hạn phải rời căn nhà thân yêu để
mãi mãi ra đi
với mảnh hồn tơi tả
không cần giấy thông hành
Đôi khi anh
cũng có một vài bài bằng cách viết ẩn dụ anh nói về cuộc sống với vẻ bi quan,
nhẫn nhục chỉ biết chịu đựng làm việc trong nỗi thống khổ của kiếp ngựa trâu,
làm sao khác hơn cái thân phận con người trong thời buổi chiến tranh loạn lạc
chết chóc như thế. Chiến tranh làm giàu cho nhừng kẻ có quyền lực, xem mạng
người như vật tế thần thì xót xa nào hơn cho thân phận loài bò kia chứ:
...2- con bò bị lùa lên xe cùng với những con bò khác
sau lần tên lái buôn vô nghì đã nhận tiền
của một kẻ mệnh danh là chủ nó
ôi đồng tiền tên lái buôn thụ hưởng
đã phải trả bằng máu bằng xương bằng thịt loài bò
vì thế con bò thở rất khó nhọc
vai chiếc sừng nặng như hai hòn núi
bốn chân run run đứng không vững
và cất lên tiếng kêu thống thiết của loài bao...
(Con bò trên
chiếc xe hàng)
Cần nói thêm một chút về tình cảm đời thường của Hạc Thành Hoa: Đối với bạn bè anh sống rất chân tình cởi mở, luôn vui vẻ, thậm chi anh còn xuề xòa cảm thông với những khó khăn của bạn. Ngồi trong căn nhà nhỏ ở Bình Thạnh cùng anh cả một buổi sáng, bên tách cà phê bốc khói mà con gái anh vừa pha cho chúng tôi, anh nói về văn chương, bạn bè một cách say mê: chẳng hạn như việc anh suýt làm em rể Trần Phong Giao, thư ký tòa soạn báo Văn lúc bấy giờ, những lúc bù khú rượu chè với anh em văn nghệ như trong lời kể của Nguyễn Lệ Uyên:
“Nếu như những ngày lang bạt ở sông nước miền Tây,
không gặp ông, không ăn đậu ngủ nhờ ở căn gác trọ của ông thì tôi không thể tin
nổi ông là một con người đa cảm, đa đoan đến vậy. Mà căn gác ấy, căn nhà bên
con rạch Cái Sơn, Sa Đéc đâu chỉ riêng mình tôi, còn có cả Vũ Hữu Định, Nguyễn
Tôn Nhan, Hà Nghiêu Bích, Yên Bằng… kẻ trước người sau đến với ông như chút ấm
áp của những que củi nhỏ buổi tàn đông, như hơi thở nguội sau những đêm dài
đông cứng những cốc rượu tràn. Căn phòng nhỏ nhìn ra con rạch êm đềm, đầy bóng
râm mát, đầy tiếng ve trên những tàn cây cổ thụ và tiếng đàn và thơ.”
Hoặc câu chuyện
về Vũ Hữu Định: Lúc đó Vũ Hữu Định sống lang bạt kỳ hồ nên hầu như bao giờ cũng
viêm túi, mỗi lần có thơ Hạc Thành Hoa đăng trên Văn thường đến tòa soạn xin
ứng tiền nhuận bút của Hạc Thành Hoa cho mình, khi được Trần Phong Giao nói lại
anh hề hà cho qua. Câu chuyện nầy tôi có đọc trên facebook của nhà thơ Phạm
Thanh Chương đăng ngày 13 tháng 3-2021 là một minh chứng:
“Buổi chiều đi làm, tôi giao căn phòng cho Vũ Hữu Định, anh
tắm giặt, viết rồi nằm lăn ra ngủ.
Chiều tối
trở về tôi không thấy Vũ Hữu Định đâu cả, anh đến rồi đi bất chợt như một cơn
mưa giông ở Sài gòn.
Bẵng đi
hơn tuần lễ, một buổi sáng Vũ Hữu Định đến tìm tôi:
- Sáng nay
mày làm gì? Gần đây có cái quán nào không?
- Chi vậy
?
- Đi uống
với tao chai bia
- Sao hôm
nay chơi “sộp” vây?
- Tao vừa
ghé tòa soạn Văn nhận nhuận bút bài thơ của Hạc Thành Hoa.
Tôi với Vũ
Hữu Định vào cái quán nhỏ trong khuôn viên của thành Ô Ma. Vũ Hữu Định nói mỗi
đứa uống một chai thôi, nhưng cứ vừa uống hết anh lại kêu thêm chai nữa… và cứ
như vậy cho đến lúc nhuận bút bài thơ của Hạc Thành Hoa bay theo những chiếc vỏ
chai nằm lổn ngổn dưới góc bàn Vũ Hữu Định mới chịu ra về”
(Phạm Thanh Chương-Thi sỹ Vũ Hữu Định, gã
giang hồ lãng tử”
Trần Dzạ Lữ thì lại có một kỷ niệm khác: “Tôi và anh(HTH) chỉ gặp nhau có một lần ở Sài Gòn nhưng thư từ qua
lại thì thường xuyên. Nhớ năm 1995, khi tôi in tập thơ đầu tay: Hát Dạo Bên
Trời. Lời chúc mừng của HTH là bài viết ( viết tay) dài 2 trang giấy A 4. Chữ
nhỏ như con kiến nhưng đẹp lạ thường. Tôi cảm động biết chừng nào và giữ kỷ vật
ấy đến bây giờ. Mọi buồn vui trong cuộc sống anh đều kể cho tôi nghe. Có lần
anh về Đà Nẵng chấm thi được bạn bè văn nghệ tiếp đón niềm nở và đưa đi tham
quan cùng khắp. Khi lên tàu vào lại miền Nam, anh đã điện thoại kể cho tôi nghe
và ứa nước mắt khi chia tay ĐN. Đấy, một con người sống tình cảm như thế mà ai
không thương? Lại có lần đâu thập niên 90, Hạc Thành Hoa nghe ai kể có một nhà
văn nữ ở SG gặp khó khăn, anh đã viết thư kêu tôi cố gắng vận động giúp đỡ. Tôi
trả lời anh là tôi biết nhà văn ấy đang có nhà mặt tiền ở quận 3 và đang có
quán cà phê để kiếm cơm chưa đến nỗi phải chở từng bó rau đi bán như tôi và ở
nhờ nhà vợ trên một căn gác chưa tới 12 mét vuông. Thế là anh im. Vậy đấy, nhà
thơ HTH rất dễ mũi lòng... và trong sáng đến lạ!”
Qua nhà thơ Thai Sắc, một
nhà thơ cùng Hội VHNT Đồng Tháp, sống gần nhà anh ở đường Trương Định Cao Lãnh đã
ghi lại một số giai thoại khá thú vị về anh, tôi xin được trích vài mẫu chuyện
các bạn đọc cho vui, qua đó phần nào thấy được tích cách và tâm hồn thơ đầy hồn
hậu của anh:
1- Nhà thơ trăng mà chỉ biết đi bộ:
Hạc
Thành Hoa là tác giả của tập thơ về trăng vừa được Nhà Xuất bản Thanh niên
ấn hành năm 1995. Anh cũng là một Nhà giáo Ưu tú mà xa gần đều biết tiếng
bởi những giờ dạy Văn hấp dẫn.
Thơ
cũng như bài giảng của anh luôn bay bổng, tìm đến với bầu trời, với trăng
sao xa vời…Nếu buộc phải chở những ý tưởng ấy của anh lên bao la vũ trụ, hẳn
phải dùng tàu liên hợp!
Anh
sống phóng khoáng và giàu lòng nhân ái.
Có
điều, đến giờ đã ngót lục tuần mà anh vẫn chưa hề biết đi xe đạp, nói chi
đến xe máy… Chỉ “ham” mỗi phương tiện giao thông bền, chắc, không mất tiền mua
là xe…"hăng cải”. Nghe đâu có lần, vì một lí do nào đó, nhà
thơ trăng đã đi bộ từ chợ Bến Thành ra Xa cảng Miền Tây, lên
xe đò về Cao Lãnh.
Nếu
xe đò hết, chưa biết chừng…
Giá
thống kê được số km đi bộ của thi sĩ Hạc Thành Hoa trong gần sáu
chục năm qua trên cõi Trần này, biết đâu, đó là một con số đáng đưa
vào sách kỷ lục của ngành giao thông thế kỷ XX?
2- "Gã cô đơn":
Hạc
Thành Hoa, Thai Sắc cùng Hoàng Đình Huy Quan (Phú Yên), Phù Sa Lộc (Cần
Thơ) và Hồ Thanh Điền (An Giang) đi uống bia, dạo mấy nhà thơ xứ
khác về Đồng Tháp chơi.
Chẳng
hiểu trời đất xui khiến thế nào mà "đi lạc” vào quán bia có mấy cô gái
phục vụ rất nhiệt tình và hơi bị… xinh.
Mới
xuất hiện, các nàng đã "lăm lăm” khăn lạnh, nhằm cái bản mặt phong
trần của các nhà thơ mà lau. Mà các nhà thơ vốn hiền lành và rất dễ mủi lòng,
nên cũng lặng yên để mặc cái mặt mình cho các em "chăm sóc”…
Duy
mỗi Hạc Thành Hoa là thao tác ngược lại!
Dịu
dàng chiếc khăn lạnh trên tay, chàng thi sĩ từ từ đưa lên tấm dung
nhan đầy son phấn của của cô gái trẻ.
Trời
đất, có phải chàng tính nom cho rõ khuôn mặt người đẹp? Hay vì chàng quá
xúc động mà động tác đâm ra bối rối, vụng về ở những nơi như thế này?
Bông
hoa giật nảy mình, vụt đứng dậy, thót ra ngoài.
Từ
lúc đó, Hạc Thành Hoa trở thành "gã cô đơn” trong căn phòng lạnh, rúc
rích tiếng nói cười và cả những vần thơ bay bổng…
(41 giai thoại làng văn nghệ
Đồng Tháp – Thai Sắc)
Tôi nhớ một câu nói của nhà thơ Gibran người
Li Băng: “Thơ không phải là một ý kiến suông.
Nó là một ca khúc được cất lên từ miệng vết thương hoặc từ một nụ cười.”, vết thương
mà nụ cười không phải do nhà thơ tự tạo ra mà do hoàn cảnh, thế sự, nỗi đau,
hạnh phúc cuộc đời mang lại và hạnh phúc biết bao khi những vần thơ ấy được cất
lên từ những vết thương và nụ cười cuộc đời mang lại. Thơ Hạc Thành Hoa trước
sau đã đạt được điều đó.
Bên bờ Kênh Tẻ,
tháng 3/2021
NGUYỄN AN BÌNH
___
____________________________________________________
Tham
khảo:
1-
Hạc Thành Hoa, người phơi áo đêm trăng của Trần Hoàng Vy
2- Thế giới thi ca
của Hạc Thành Hoa – Trần Tuấn Kiệt
3- Hạc Thành Hoa những
ám ảnh trăng vàng nguyệt – Nguyễn Lệ Uyên
4- Những bài thơ
không giới hạn dành cho cô đơn- Đặng Châu Long
5- 41 giai thoại
làng văn nghệ Đồng Tháp – Thai Sắc
6- Hạc Thành Hoa –
Người của tình văn nghệ vô biên – Trần Dzạ Lữ
7- Hạc Thành Hoa
bóng đời choáng ngợp nỗi cô đơn – Đặng Châu Long
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét