Thứ Hai, 8 tháng 11, 2021

VÕ CHÂN CỬU-HỒN THƠ TRÔI THEO "NGỌN GIÓ" ĐÃ BIỀN BIỆT PHƯƠNG NÀO

 BÀI CẢM NHẬN CỦA LƯƠNG THIẾU VĂN VỀ TẬP THƠ "NGỌN GIÓ" CỦA NHÀ THƠ VÕ CHÂN CỬU TRÊN TẠP CHÍ NGÔN NGỮ 16-HOA KỲ THÁNG 11-12/2021

VÕ CHÂN CỬU-HỒN THƠ TRÔI THEO "NGỌN GIÓ" ĐÃ BIỀN BIỆT PHƯƠNG NÀO






CẢM NHẬN TÁC PHẨM:

 

VÕ CHÂN CỬU – HỒN THƠ TRÔI THEO “NGỌN GIÓ” ĐÃ BIỀN BIỆT  PHƯƠNG NÀO

                                                         *LƯƠNG THIẾU VĂN


 

Nhà thơ Võ Chân Cửu tên thật là Văn Hưng, sinh năm 1952 tại Phù Cát, tỉnh Bình Định. Từ những năm cuối theo học bậc phổ thông trung học, Võ Chân Cửu đã có thơ đăng trên các báo, tạp chí văn học ở miền Nam. Năm 1972, khi mới tròn 20 tuổi, Võ Chân Cửu đã trình làng thi phẩm "Tinh Sương". Và chỉ một năm sau, anh xuất bản tiếp tập thơ "Đại Mộng".
Sau năm 1975, Võ Chân Cửu làm báo, viết sách và tiếp tục làm thơ.Các
bút danh anh thường sử dụng: Võ Chân Cửu, Tuy Viễn, Hưng Văn. Ngoài hai tập thơ “Ngã Tư Vầng Trăng” và “Trước Sau”, nhà thơ Võ Chân Cửu còn phát hành ba cuốn chân dung - tiểu luận là “22 Tản ạn”, “Theo Dấu Nhà Thơ” và “Vén Mây”. Anh mất ngày 23/12/2020 tại Bảo Lộc Lâm Đồng.    

  Tôi biết nhà thơ Võ Chân Cửu từ rất lâu, khi anh còn học ỏ Đại học Vạn Hạnh và có thơ xuất hiện rải rác nhưng khá đều đặn trên các tập san, tạp chí thời danh miền Nam trước 1975 nhưng chưa lần nào duyên gặp được anh, mãi những năm gần đây khi về hưu định cư cùng gia đình ở Sài Gòn tôi mới có dịp gặp gỡ và làm quen với nhà thơ Võ Chân Cửu, điều đặc biệt tôi quí anh ở chỗ lần đầu tiên khi mới gặp mặt anh bắt tay vui vẻ thân tình và hỏi han như đã quen từ lúc nào, cái phong thái đó tôi thường gặp ở những anh em văn nghệ trước năm 1975, sau nầy cũng có nhưng phai nhạt đi ít nhiều, đôi lúc cà phê cà pháo cùng anh ở một quán nhỏ ven đường Trường Sa mỗi lần anh từ Bảo Lộc tạt ngang về Sài Gòn cùng các bạn văn thân quen như nhà văn Trần Bảo Định, Từ Hoài Tấn, họa sĩ Nguyễn Sông Ba giống như một “Ngọn Gió” từ đâu trôi về rồi lại tất tả bay ngược lên B’lao nơi anh dừng chân từ lúc nghỉ hưu. Đối với tôi nhà thơ Võ Chân Cửu là một người anh, người bạn thơ sống rất chân tình với bạn bè, cũng không ít lần anh rủ rê tôi lên Đại Lào Bảo Lộc chơi với anh vài ngày(lúc đó anh chưa chuyển nhà ra tp Bảo Lộc sinh sống) nhưng tôi nấn ná chưa đi được thì được tin anh qua đời vì bệnh. Anh bệnh viêm tắc phế quản mãn tính giai đoạn cuối chắc có lẽ lúc trước do hút thuốc lâu ngày ảnh hưởng nên.

Tập thơ Ngọn Gió” anh gởi tặng tôi khá lâu trong một dịp anh về Sài Gòn rong chơi cùng bạn bè. Tập thơ tập hợp 153 bài thơ, chủ yếu trích từ 3 tập thơ đã xuất bản: Tinh Sương(Thi Ca, Sài Gòn 1972), Đại Mộng(Nhị Khê, Sài Gòn 1973), Ngã Tư Vầng Trăng(NXB Trẻ 1990), Trường ca Quảy Đá Qua Đồng(1974) và các bài thơ viết từ 1972-2011 chưa in trong sách nào.

 Lúc sinh thời nói về thơ, Võ Chân Cửu nêu rõ quan điểm của mình:"... Dù bắt nguồn từ khuynh hướng hay trường phái nào, tác phẩm văn chương, nhất là thơ ca cũng phải từ cảm xúc con người. Khi cảm xúc bị tác động thì trong lòng phát ra lời với âm hưởng và tiết tấu. Đó được gọi là Thơ. Như vậy, Thơ dùng biểu lộ tình cảm và tư tưởng con người". Điều đó thật là dễ hiểu và trước sau con đường thơ của anh đã đi theo luồng cảm nghĩ như thế.

 

BÀNG BẠC TRONG NGỌN GIÓ LÀ TÌNH YÊU ĐỐI VỚI QUÊ NHÀ

              Đọc tập thơ “Ngọn Gió”, đều cảm nhận đầu tiên của tôi là tình cảm đối với quê nhà bàng bạc rất nhiều trong thơ anh. Nó như hạt sương sớm hay ngọn gió chiều thổi qua cánh đồng cô quạnh, một cảm giác mơ hồ mà anh gọi đó là cố hương: 

                 Nước chè hai trăng dẫn lên nguồn

                 Tôi không về nước chảy đi luôn

                 Đêm nghe nhịp máu gần gang tấc

                 Biết bao giờ trở lại cố hương

                                                   (Cố hương)

Theo tác giả Việt Hiền trong bài “Nhà thơ Võ Chân Cửu về với mây trời” làng cũ mà Võ Chân Cửu nói ở trên chính là thôn Tân Thanh, xã Cát Hải, nơi chôn nhau, cắt rốn của nhà thơ. Vùng đất này xuất hiện khá nhiều trong thơ Võ Chân Cửu, với những địa danh: Chợ Cách Thử, hòn Đá Tượng, mả ông Năm… Hãy xem bức tranh quê qua ký ức của Võ Chân Cửu:

“Cố hương đèo nối ba truông

Đón ma họp chợ bán buôn rộn ràng

Xưa theo chân mẹ về làng

Chỉ nghe gió thổi cát vàng mênh mông

Bây giờ xanh ngát hư không

Trưa nằm nhắc chuyện viễn vông nhớ nhà

Làng xưa vắng bóng người qua

Nồi trôi phố chợ lòng ta ngậm ngùi”

                                     (Phố Chợ)

Nhà văn Mang Viên Long có lẽ cùng đồng hương với nhau nên có những đồng cảm sâu sắc khi đọc “Ngọn Gió”: Quê nhà trong thơ Võ Chân Cửu đã được chuyển hóa qua bao cuộc thăng trầm, qua bao niềm nhớ thương hiu quạnh; nên đọc thơ anh chúng ta dễ đồng cảm, dễ có niềm cảm thông sâu sắc, bởi chính đó cũng là một chốn “quê nhà chung”:

 

 “Mặt trời đã khuất non tây

Nghìn con nhạn lại bơi đầy trong không

Theo luồng khói phủ xa trông

Chốn quê quán cũ mây lồng bóng mây”

                               (Chốn Cũ)

Chìm nổi giữa chốn “quê nhà” thê lương, hiu hắt – nhà thơ luôn cảm thấy một nỗi “cô quạnh” thường trực bên đời:

“Lạnh tanh nhà lộng gió

Cú kêu ngoài hàng tre

Sương tan mờ dấu cỏ

Người đêm nay không về”

                             (Cô Quạnh)

              Nổi bật nhất có lẽ là bài thơ Quê nhà của anh viết theo thể thơ năm chữ, là thể thơ anh sử dụng rất nhiều trong tập Ngọn Gió, gồm 36 đoạn với 148 câu thơ, quê nhà là hoa cỏ, sao mọc đầu hôm, canh gà, tiếng dế, màu trăng, suối reo, bến nước con đò, tà dương núi biếc, là miền Đại Hoang... là tất cả hình ảnh đời thường trong cuộc sống từ thuở bé thơ hay trong suy nghĩ viễn mơ chập chờn trong ký ức của anh:

Ta nghe lời em nói

Trong sao mọc đầu hôm

Và gió mây cũng gọi

Người về trên cô thôn...

 

Sớm mai trời đất nhẹ

Lòng ta như phiêu bồng

Nhìn non xa be bé

Mây trắng chảy cùng sông...

 

            Nên khi trở thành đám mây viễn xứ thì quê nhà trở thành khói sương, lãng đãng trong tháng ngày phiêu hốt đó đây hay đôi lúc trăn trở trong cuộc sống áo cơm còn nhiều gian khó:

Đêm nào chờ trăng lặn

Nghìn xưa sao bên hồ

Khi thấy trên trời vắng

Khói sương đã phủ mờ...

 

Ta nghe lòng giục giã

Trong khuya vắng canh gà

Mười năm theo mây nổi

Ta đánh mất quê nhà...

 

Cô độc dặm tà dương

In dày qua núi biếc

Mây trắng miền cố hương

Bay dưới chân người bước...

               Khi đọc Quê Nhà, nhà văn Võ Phiến đã có suy nghĩ sâu sắc và tinh tế: “Này xem: Xa làng lâu ngày, một hôm trở về ông thấy núi thấy mây ở quê mình:

“Bỗng nhiên lạnh cả hồn tôi

Khi trông thấy dáng núi ngồi co ro

Mười năm làng cũ không về

Đăm đăm mây trắng lê thê mái đầu.”

                      (Đăm đăm mây trắng)

              Trên đất nước nầy, bạn có từng bắt gặp cái núi ở nơi nào nó ngồi như vậy không? Bạn ngờ rằng thứ núi co ro đáng hãi nọ ngẫu nhiên là đặc cảnh địa phương chăng? Không phải vậy đâu. Không cần nhìn cảnh làng mình Võ Chân Cửu mới thấy ra vậy; ngay lúc đi giữa thành phố Sài Gòn ông cũng thấy những cái khó có người thấy:

“Ngã ba ngã bảy xe đi khuất

Cơ khí xen cùng nhịp gió mưa

Tiếng ma thiên cổ vong u uất

Vắng lặng buồn xo suốt bốn mùa.”

                               (Sài Gòn)

(Văn học Miền Nam tập IV-Thơ, nxb Văn Học, California 1998)”

Ngoài bài thơ Quê Nhà, trong tập Ngọn Gió làm ta chú ý đến là bài “Chùa Cổ Bên Sông” cũng viết theo thể thơ ngũ ngôn, bài nầy lần đầu tiên được in trên tuần báo Khởi Hành năm 1969 lúc tác giả mới 17 tuổi, thoạt đầu người đọc có thể lầm tưởng tác giả đang ở lứa tuổi trung niên vì thi pháp già dặn của nó. Nhà thơ Nguyễn Lương Vị lúc còn sống đã có những suy nghĩ khá thú vị về bài thơ:

Theo tôi, đây là bài thơ xuất thần nhất trong Tinh Sương. Thi sỹ viết như nhập đồng, thơ chảy trôi một mạch như khúc đồng dao, nhịp theo tiếng mõ thánh thót như những giọt sương trời, vang vang, lắng lắng. Chùa cổ, sông, là biểu tượng đầy ẩn dụ: Động và tĩnh, xa và gần, mộng và thực, dìu dặt âm vang, quyện vào nhau trong tiết điệu lung linh, chập chùng, trùng điệp. Bài thơ có thể tụng (gọi một cách phiêu bồng là “thi tụng”) với nhịp ngân nga trầm bổng, hay có thể hát lên một mình trong đêm thanh vắng. Tụng hay hát, nhả giọng khoan thai từng chữ, câu chuyện kể sẽ ánh lên một âm vang và sắc màu vừa thực vừa mộng. Tụng hay hát, sẽ bật lên tiếng ca xang bi mẫn giữa bóng đời dâu bể trầm luân. Em là ai? Là duyên nghiệp trùng trùng, là vết thương tâm “bạc áo nâu sồng/ kiệt trên đời cũ” của kiếp người ảo hóa mong manh. Bài thơ thấm đẫm mùi Đạo mà ngan ngát hương Đời, nên không có chỗ dừng. Càng tụng, càng hát, càng lung linh âm vang và sắc màu, “Sông nước chập chùng/ Nước xô thiên địa/ Chùa cổ bên sông…”

...Tinh Sương, đúng như tên gọi, một giòng thơ lung linh, trong veo trong vắt, nhất khí từ bài đầu đến bài cuối. Âm vang, có một chút gì đó hiu hắt, lành lạnh, trầm trầm. Sắc màu, có một chút gì đó vừa ảo diệu, vừa mênh mông. Chữ trong mạch thơ, hình như thi sỹ cố ghìm lại những tiếng nấc thảng thốt của buổi đầu đời, khi bắt đầu cảm nhận được cái cô liêu, côi cút, bơ vơ của kiếp người.

Từ khi rời quê nhà và trên bước đường viễn xứ của mình, mỗi một vùng đất anh đi qua, mỗi một con đường anh bước, mỗi một cảnh vật anh nhìn, trong mắt anh những vần thơ lại rung lên theo bước chân lang bạt của anh, lúc mộc mạc chân tình, lúc tha thiết lắng đọng, lúc suy tưởng mơ hồ nhưng tựu trung đều là những tình cảm rất thực, rất hồn nhiên:

...Muốn ngồi lại bên cầu gom ít nắng

Sưởi lên từng đá tảng bậc thềm rêu

Con nước chảy lòng tôi đành lỗi hẹn

Mây phiêu du xin gởi lại trong chiều...

               (Những buổi chiều Sông Bé)

 

...Em là ai – tôi không biết từ đâu

Một thoáng hiện rồi đi, tan biến mãi

Cho trĩu nặng lòng tôi khi nhớ lại

Đêm Cà Mau đêm Cà Mau đêm rất lâu.

              (Đêm Cà Mau-1988)

 

Anh cũng không thể ngờ rằng bài thơ B’lao anh viết năm 1986 trong một lần thoáng qua lại là nơi gắn bó cuộc đời mình ở những ngày cuối đời, âu cũng là định mệnh:

Tôi về hỏi lại rưừng cao

Bóng mây năm cũ hôm nào còn bay

Chiều lên nắng tắt theo ngày

Ánh trăng nhưư thể nghìn tay ai cầm...

 

...Tôi về hỏi lại rưừng cao

Đừng quên em nhé nghìn sao tiếng thầm!

 

Trong bài viết “Tản Mạn Cùng Võ Chân Cửu” khi đánh giá về thơ anh, nhà giáo Huỳnh Như Phương có nhận xét: “Nói về thế hệ cùng thời với Võ Chân Cửu, cách phân loại vừa quen thuộc vừa dễ dãi được một số người chấp nhận lâu nay: khuynh hướng “dấn thân” và khuynh hướng “viễn mơ”. Nhưng ranh giới giữa hai khuynh hướng đó đâu dễ phân định. Chỉ cần đặt câu hỏi: dấn thân về đâu mới là dấn thân đích thực? Và người ta có thể dấn thân mà không cần viễn mơ? Thậm chí, người dấn thân có thể cũng là người mơ tưởng hão huyền nhất!

Dù sao, trong văn cảnh miền Nam thời đó, Võ Chân Cửu dễ được xếp vào nhà thơ “viễn mơ”, căn cứ vào thi hứng, thi tứ và cả nhan đề tác phẩm của ông: Tinh sươngĐại mộng, Tà huy, Bóng trăng ngàn, Đường vô núi, Sáng thinh không, Ngã tư vầng trăng, Quẩy đá qua đồng, Chùa cổ bên sông… Con đường “viễn mơ” đó bao đời nay đã là một dòng lớn của thi ca Việt Nam.

(Tản mạn với Võ Chân Cửu-Huỳnh Như Phương)

Đúng như nhà thơ Trịnh Bửu Hoài viết về anh: “Qua bộ tản văn nầy tôi mới biết Võ Chân Cửu đi nhiều, gặp gỡ và sống cùng nhiều anh em văn nghệ thời bấy giờ, nhất là các tỉnh miền Trung quê anh. Vào Sài Gòn học, anh có điều kiện tiếp cận giới văn nghệ nhiều hơn. Điều đáng khâm phục ở anh không chỉ là máu giang hồ mà anh còn có một trí nhớ rất tốt. Đến với bạn bè, anh có một tấm lòng, một chân tình mới có được những kỉ niệm đẹp như thế.

Đối với tôi, được đọc thơ Võ Chân Củu từ những ngày đầu khi anh mới bắt đầu xuất hiện trên văn đàn cho đến mãi sau nầy giọng điệu, hồn thơ vẫn giữ được một bản sắc cho riêng mình không thay đổi dù trải qua muôn vàn biến động của thời gian và không gian, có điều càng về sau càng trầm lắng và chiêm nghiệm, mạch nguồn thơ vẫn trong trẻo, hồn nhiên mang hơi thở, sức sống tiềm tàng. Thơ anh không mang vẻ huyền bí, cách tân hay dị biệt mà chỉ là tiếng lòng của một nhà thơ chân chất hồn hậu trước cuộc sống muôn màu muôn vẻ.


 CHIA TAY  NGƯỜI ANH, NGƯỜI BẠN THƠ VÕ CHÂN CỬU

Chiều tối ngày 23/12/2020 qua thông tin trên fb của gia đình và một số bạn bè thân cận, tôi biết được nhà thơ Võ Chân Cửu đã ra đi lúc 18g30 tại Bảo Lộc trong vòng tay ấm áp của gia đình. Sau đó linh cửu được chuyển về Pháp viện Minh Đăng Quang số 505 Xa lộ Hà Nội, Q2 Tp HCM và hỏa táng ngày chủ nhật 27/12/2020.

Nay anh đã rời xa cõi tạm, xa những người thân yêu quí, xa bạn bè văn nghệ, anh ra đi thật nhẹ nhàng như ngọn gió sớm mai, phiêu bồng và thanh thản như ở bài thơ “Quê Nhà” trong thi phẩm đầu tay “Tinh Sương” của anh viết khi mới 20 tuổi:

...Bước chân về muôn dặm

Đường trưa mờ bóng ma

Đôi mắt chưừng u ám

Tiếng ngàn khi bay qua...

 

...Mây bay từ thiên cổ

Cùng nhau trời đất tan

Ta một linh hồn nhỏ

Vơ vẩn miền Đại Hoang.

Từ nay giọt lệ “Tinh Sương” đã trôi qua vùng trời “Đại Mộng”, không còn ai hát khúc trường ca “Quảy Gánh Qua Đồng” để tìm tri kỷ ở “Ngã Tư Vầng Trăng”, nhìn lại“Trước Sau” không một bóng hình, biết ai còn nhớ người gọt bút viết “22 Tản Mạn” đi “Theo Dấu Nhà Thơ”. Thôi thì “Vén Mây” xin khép lại để hồn thơ theo “Ngọn Gió” lên trời, viễn du ở một thế giới khác nhẹ bước giang hồ anh Võ Chân Cửu nhé.

Bên bờ Kênh Tẻ, tháng 9-2021

LƯƠNG THIẾU VĂN

_________________________________________________

Tham khảo:

1- Tập san Quán Văn 46 Vào Hạ, Chân dung văn học nhà thơ Võ Chân Cửu

2- Võ Chân Cửu: Trước sau đều của riêng mình của Nguyễn Lương Vị

3- “Quê Nhà” trong thơ Võ Chân Cửu của Mang Viên Long

4- Thương nhớ nhà thơ Võ Chân Cửu của Trần Trung Sáng

5- Một thời không quên của Trịnh Bửu Hoài


1 nhận xét: