*NGUYỄN AN BÌNH
Truyện ngắn Vùng Đồi của nhà văn Phạm
Văn Nhàn tôi đã được đọc từ lâu, truyện được in trong tập truyện ngắn cùng tên do
Thư Ấn Quán in lần đầu năm 2000 và được tái bản vào các năm 2002, 2014, nó cũng
được in trong tập Màu Thời Gian của cùng tác giả. Tôi cho rằng đây là một truyện
ngắn hay và có ấn tượng nhất trong các truyện ngắn của anh. Câu chuyện kể về một
người lính miền Nam sau khi ra tù cải tạo đã tự nguyện lên vùng đồi để phủ xanh
cái đồi trọc nham nhở dấu vết bom đạn của một thời chiến tranh, cái đồi mà ngày
xưa trong chiến tranh chỉ sau một đêm dưới trận pháo kích dữ dội của những người
“anh em” phía bên kia đồng đội của anh không còn một ai sống sót và anh cũng chỉ
thoát chết trong gang tấc. Chỉ có sống trên ngọn đồi nầy, người lính cũ ấy mới
cảm thấy không bỏ rơi đồng đội, không có lỗi với họ, tìm chút gì đó an vui, ấm
áp cùng chia ngọt xẻ bùi với đồng đội như trong những thời khắc khốc liệt nhất
của chiến tranh. Những kẻ đi rừng cho rằng có ma có quỷ trên đó vì mỗi đêm gió
nổi lên họ nghe có nhiều tiếng hú rợn người nhưng người lính lại cho rằng đó là
lời nói thầm thì của đồng đội đang nói chuyện với mình, kêu gọi anh về với họ.
Nỗi ám ảnh khôn nguôi, một “sang chấn tâm lý” thời hậu chiến mà nhiều người
lính cả hai phe thắng và thua cuộc đều mắc phải.
Phải nói thật lòng, trước 1975 tôi chưa
có dịp đọc và tiếp xúc nhiều với các tác phẩm của nhà văn Phạm Văn Nhàn, tần suất
của anh hiện diện trên các tạp chí miền Nam bấy giờ rất ít trong khi đó người bạn
văn cũng là người bạn thân của anh-Trần Hoài Thư- truyện lại ‘phủ sóng” khắp
nơi từ Văn, Văn Học, Bách Khoa, Vấn Đề... Sau nầy đọc bài viết “Phạm Văn Nhàn
Những Hiển Lộ Từ Miền Ký Ức” của Nguyễn Lệ Uyên tôi mới biết phần nào lý do sự vắng mặt
đó:
“Phạm Văn
Nhàn viết ít. Đến nay ông có 2 tập truyện là “Vùng Đồi” và “Màu Thời Gian”, đều
viết khi định cư tại Hoa Kỳ và do Thư Ấn Quán xuất bản. Trước 75 ông cũng có
một số truyện ngắn đăng rải rác trên các báo văn nghệ miền Nam, nhưng có lẽ do
chiến tranh, hành quân và huấn luyện nên không giữ được bản thảo và cả những
bài lai cảo để có thể coi đó là dấu mốc cho sự nghiệp văn chương cho cá nhân.
Có lần ông
tâm sự: “Tôi đến với văn chương, trước hết là vì bạn bè”. Như vậy, phải chăng
niềm đam mê của ông với chữ nghĩa được nhìn thấy từ bóng dáng các bạn văn nghệ
một thời, nơi những vùng đất đóng quân, kéo dài từ Bình Định đến Bình Thuận. Đó
là những Trần Hoài Thư, Lê Văn Trung, Võ Tấn Khanh, Nguyên Minh, Nguyễn Bắc
Sơn, Tô Đình Sự… nhất là với người anh Từ Thế Mộng. Nói khác, ông đã bị cuốn
hút vào sinh hoạt văn nghệ từ trong nước hay sau này ở nước ngoài, ít nhiều đều
xuất phát từ những người bạn. Ở đó, họ sống hết mình, làm việc hết mình và đối
đãi với nhau bằng cả tấm lòng chân thật”.
Thế hệ của nhà văn Phạm Văn Nhàn là thế
hệ của những Hà Thúc Sinh, Trần Hoài Thư, Trần Dzạ Lữ, Nguyễn Bắc Sơn, Lâm Hảo
Dũng, Phạm Cao Hoàng, Mang Viên Long..., thế hệ đó Trần Hoài Thư gọi chua chát
và cay đắng nhưng cũng rất tự hào là “thế hệ chiến tranh”, thuở ấy từ xa tôi
nhìn họ với cặp mắt ngưỡng mộ và háo hức theo dõi từng bước chân của họ trên
con đường văn học. Đối với nhà văn Phạm Văn Nhàn bằng lối kể chuyện dung dị, không rào đón hay tạo những nếp
gấp bất ngờ hầu bẩy người đọc, ngòi bút của ông giống như con sông đưa nguồn nước
rỉ rả đi về mọi hướng bằng những câu chuyện xưa cũ, kỷ niệm nào đó thời đi học,
những con người một thời thân quen gần gũi nay không còn hay đang ở một phương
trời xa lắc,và nhất là hình ảnh người lính, anh viết về đồng đội của mình một
thời đồng cam cộng khổ, một thời tù đày cải tạo với một niềm cảm thông và quí mến,
những Nó, Hắn, Anh như nói đến một người
nào khác nhưng thật ra tôi biết đâu đó trong Nó, Hắn, Anh có hình ảnh của anh
bên trong. Những người đã mất hình như vẫn còn đâu đó, đan xen vào những giấc
mơ khi thì đằm thắm dịu dàng, khi thì cay đắng xót xa, khi thì ngậm ngùi buồn
bã... nhưng tuyệt nhiên tôi không thấy nét hận thù căm tức hay sự nguyền rủa
khinh bỉ đối với những kẻ đã đày đọa mình sống như một loài cầm thú, gánh lấy
những oan khiên đầy khổ nạn của những người lính bên thua cuộc.
Đất nước trải qua một cuộc chiến tranh kỳ lạ, đau đáu
trong lòng người cháu trước hoàn ảnh gia đình của người bác:
“Để ngày ngày bà ra ngồi nơi cách cửa
phía sau nhà nhìn ngôi mộ của anh mà buồn da diết. Cha theo về phía bên kia.
Con cháu về phía bên này. Cứ đánh nhau hoài. Bà ăn chay niệm Phật hằng đêm để
cho cha con đừng giáp mặt nhau. Nhưng làm sao biết được, có thể cha con cùng
đánh nhau trên một mặt trận mà không hay biết. Chiến tranh kỳ quặt, rõ
ràng nồi da xáo thịt trong ngôi nhà của bác tôi.” Và ngay cả bản thân người cháu cũng bị
cuốn theo guồng máy của cuộc chiến tranh kỳ lạ ấy để rồi ba năm đi lính và bảy
năm cải tạo, cũng phải rời bỏ quê nhà mà không biết bao giờ trở lại.
(Một Chút Ngậm Ngùi)
Hương Xưa cũng là một truyện ngắn khác làm tôi trăn trở rất
nhiều về chính sách lừa dối mị dân của chính quyền mới thời đó: Hắn sau nhiều
năm đi tù cải tạo vì là lính miền Nam, ra tù vất vả kiếm sống “Hắn không từ bỏ một chỗ làm nào, miễn làm sao có
tiền để sống”.Trong
một lần ngồi nghỉ trước cổng căn nhà khang trang của một gia đình có vẻ quyền
thế trong một xã hội đã thay đổi chủ, hắn đã tần ngần say mê nghe lại một bản
nhạc cũ, nhìn sự xơ xác của hắn đến nỗi mấy đứa con gái trong nhà tưởng hắn là
lão ăn xin “ Nhắm
mắt cho tôi tìm một thoáng hương xưa. Cho tôi về đường cũ nên thơ. Cho tôi gặp
người xưa ước mơ... hay chỉ là giấc mơ thôi ...” Một loại nhạc
vàng mà chế độ mới cấm đoán vì là nhạc đồi trụy phản động nhưng nó lại được
vang lên một cách tự do mạnh mẽ trong những ngôi nhà sang trọng của kẻ thắng cuộc.
Cuộc đời có những cái phản diện, phi lý và dối trá đến thế.
Khi gặp lại chị của người bạn cũ,
anh nhận ra những thay đổi rất lớn ở chị của bạn. Những khổ đau trong cuộc sống mà con người đã trải qua, họ
lại mong muốn chẳng thà mình điếc hẳn luôn để không nghe thấy những điều buồn
bã, đau khổ trong cuộc đời nầy nữa:
“Thời gian đã làm thay đổi đi tất cả,
con hẻm ngày nào im ắng chậm chạp, chây lì trước những biến thiên của thời cuộc,
bây giơ sau cộc đổi đời đã trở nên ồn ào náo nhiệt, Tôi đi chậm trên con hẻm vào nhà chị,
chẳng ai nhìn ra tôi. Ngược lại tôi cũng thế. Chẳng lẽ thế hệ của tôi, ngày hôm
nay, trong con hẻm này chẳng còn ai để nhìn ra nhau, hay để tôi nhìn ra họ để
có một lời hỏi thăm mừng rỡ.Con người sống trong kỷ niệm, nặng lòng với quê hương, Những
kỷ niệm như ùa về: “Tôi
vẫn bước những bước đi thật chậm, để nhìn thấy tôi trên con hẻm này mấy mươi
năm về trước. Để nhìn thấy lại những viên gạch bằng đất nung đỏ au dùng loát đường,
nay thay bằng nhựa. Tôi đi thật chậm để nhìn thấy bong tôi và Hạo, em trai của
chị, mỗi lần tôi đến nhà chị chơi với Hạo.” Một người chị của bạn, 40 năm sau tìm về
thăm, tai điếc nặng hỏi sao không gắn máy trợ thính, người con gái trả lời thay
mẹ:
- Mẹ cháu muốn vậy. Chẳng muốn nghe ai nói chuyện gì hết. Chửi cũng
được. Khen cũng được. Mẹ cười tất. Chỉ thế
thôi cũng đủ làm ta trỉu lòng, còn gì đau đớn
hơn một nỗi đau u hoài và thầm lặng đến thế không nhỉ?
(Sống Với Kỷ Niệm
– web Văn Chương Việt)
Trong một câu chuyện khác cũng buồn như thế, đất nước đã
không còn khói lửa chiến tranh thì tại sao mình lại rời bỏ quê hương không biết
bao giờ mới quay về?
“Cuối cùng rồi chuyến bay cũng cất
cánh vào lúc nửa khuya. Tôi nhìn Sài Gòn qua khung cửa nhỏ của con tàu. Sài Gòn
vẫn ngập trong ánh đèn. Và bạn bè tôi, cùng Cầm chắc giờ này đã ngủ. Và, như
năm 68 với Cầm, tôi vẫn biệt tăm khi con tàu mang tôi rời khỏi quê hương không
biết khi nào trở lại”.
(Vẫn Mãi Mãi Biệt Tăm – web Văn Chương Việt)
Trong truyện ngắn của anh, Chiến tranh hiện ra như con
quái thú, bi thảm kì quặc và trần trụi hận thù thành một vết sẹo lớn nhăn nhúm
khó coi hằn sâu vào tâm khảm những người còn sống không thể gột rửa hay trút bỏ
khỏi xác thân dù quá khứ ấy đã đi qua cuộc đời họ lâu lắm rồi như hình ảnh Tiểu
Lan trong Thị Trấn Nhỏ, Toán trong Cô Bạn Gái Năm Xưa, người mẹ trong Nghe Tin
Ngừng Bắn, người thầy giáo trong Bông Mía Lau, Hắn trong Hương Xưa, tôi trong
Khoảng Đời Còn Lại, Người lính già trong Nơi Góc Phố Cũ, Hắn trong Tìm Về, Ông
trong Màu Thời Gian, thằng Ân khi nhìn thấy xác của thằng bạn bị bắn chết trong
Đất Khô. Người Khổ... và còn biết bao nhân vật đi qua trong tác phẩm của anh mà
không có lấy một cái tên cụ thể nào, mà thật ra cũng cần chi gán tên cho một ai
đó mà trong thâm tâm họ cũng cố muốn quên đi những ký ức đau buồn mà. Hãy để
“Màu Thời Gian” cho nó tàn phai đi có lẽ hay hơn cả thì phải.
Hiếm hoi có một chút niềm vui gượng gạo của
người vợ trẻ khi đưa chồng xuất viện mà thân thể còn khá lành lặn dù bị thương
tật rất nặng(Mùa Hoa Mận Nở).
Đúng như lời mở của nhà văn Trần Hoài Thư
khi giới thiệu tập truyện ngắn “Màu Thời Gian” của anh: “Được đọc tác phẩm của
một tác giả mình yêu thích là một niềm vui. Càng vui mừng hơn nữa khi tác giả
ấy là một người cùng một thế hệ, cùng một lứa tuổi, trên vai mang cùng chung
những thăng trầm của lịch sử. Bởi vì, ít ra, từ tác phẩm, chúng ta có thể tìm
lại cái bóng của mình của một thời...”
Tôi quí ở nhà văn Phạm Văn Nhàn tình bạn không gì thay đổi
dù trong hoàn cảnh chiến tranh hay lúc sa cơ lỡ vận qua lời kể của nhà văn Trần
Hoài Thư: “Cám ơn Thượng đế đã cho tôi
có một người bạn như anh. Anh chơi với bạn thật tình. Anh chơi với bằng hữu
thật tình. Anh đến với bằng hữu không câu hỏi, và thắc mắc. Anh cho nhiều hơn
là nhận. Căn nhà khu Sáu ở Qui Nhơn vào những năm 68,70,71 là một bằng chứng. Một
người lính nghèo như anh lại dám bỏ ra thuê một nơi dùng để dung dưỡng bao bọc
những bạn bè bằng hữu và cả những người lao công đào binh của đơn vị mà anh bảo
lãnh ra ngoài.”
Tôi ví các tác phẩm của anh như là những cánh chim lưu lạc
bay qua dòng sông định mệnh vì ngay từ nhỏ bản thân anh đã là một cánh chim lạc
loài bay vô định trong cơn lốc chiến tranh: Nằm trong một đầu thúng được mẹ
gánh chạy Tây càn qua các vùng quê của Đại Nẫm bên nhánh sông Cà Ty đầy lau sậy,
lớn lên một chút mấy đứa bạn một thời chăn trâu tắm sông thân thiết thì đứa ở
bên nầy đứa ở bên kia cầm súng bắn giết lẫn nhau. Sau tháng 4-1975 kẻ thì hả hê
sung sướng người thì lâm vào cảnh tù đày cải tạo. Nhà văn Phạm Văn Nhàn cũng
không thoát khỏi vòng xoáy định mệnh ấy như bao người lính miền Nam lúc bấy giờ
nên với anh: “...Viết không phải để trở
thành nhà văn, nhà thơ. Vì nhà văn còn có thể “hư cấu” tạo ra một câu chuyện để
trở thành một truyện, dù ngắn hay dài. Còn tôi thì không. Trước 75 và bây giờ
cũng vậy. Viết những gì mà tôi đã thấy, đã nghe, để ghi lại như một câu chuyện
kể, bạn bè đọc cho vui. Nhưng, nói gì thì nói, viết gì thì viết, người lính miền
Nam vẫn còn mãi trong tôi với những cái đẹp của người lính...”. Anh viết
như thể trả món nợ ân tình với bạn bè, đồng đội với quê hương khổ đau của mình như
nhân vật trở về và ở lại trong Vùng Đồi. Điều nầy làm tôi nhớ lại mấy câu thơ của Tô Thùy Yên:
“ Ta
về khai giải bùa thiêng yểm
Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi
Hãy kể lại mười năm chuyện cũ
Một lần kể lại để rồi thôi”.
(Ta Về)
Vâng! Một lần kể lại để rồi thôi. Những bài ký, truyện ngắn
của anh trong Vùng Đồi, Màu Thời Gian hay đăng rải rác ở đâu đó trên mạng chắc
cũng chỉ muốn có vậy.
Giờ đây cánh chim
lưu lạc ấy đã trôi qua một dòng sông định mệnh khác nhưng không phải là một
dòng sông chết chóc hận thù mà là dòng sông đầy ánh sáng và màu sắc, yên bình
hơn nhưng trong lòng lại luôn hoài vọng về một dòng sông định mệnh trong quá khứ
đầy khốc liệt và bão dông vùi dập bao kiếp người nhưng cũng thấm đậm nhân bản
và hạnh phúc dù rất mỏng manh đầy đau đớn. Ta có quyền hy vọng những dòng tinh
huyết ấy lại có điều kiện tuôn trào dù bây giờ chỉ còn là những dòng nước nhỏ
nhoi nhưng lại tinh túy và thanh khiết biết bao nhiêu.
Bên bờ Kênh Tẻ, tháng 6-2021
NGUYỄN AN BÌNH
*Tham khảo:
1- Tập truyện ngắn Vùng Đồi, Màu Thời Gian, các tác phẩm
khác đăng trên web vhnt Văn Chương Việt của Phạm Văn Nhàn.
2- Phạm Văn Nhàn Những hiển lộ từ miền ký ức của Nguyễn
Lệ Uyên
3- Với Phạm Văn Nhàn
của Trần Hoài Thư
*Nhận xét của
nhà văn Phạm Văn Nhàn:
Cảm ơn Nguyễn An Bình đã viết về một PVN.
Bài viết đúng về anh.
Từ xưa chơi với bạn bè anh vẫn nói : tôi đâu
phải nhà văn nhà báo, dù anh viết phóng sự cho Nhật báo Quyết Tiến. Và có thẻ
báo chí.
Qua Mỹ ngoài ở tù 8 năm đưa thẻ báo chí ra. Mỹ
bắt tay và hẹn gặp ở Mỹ. Không hỏi một câu.
Nói cho vui vậy mà.
Cảm ơn em đã viết về một người bạn. PVN.
(gởi
qua email ngày 22/06/2021)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét