TRUYỆN NGẮN TRÊN TẬP SAN RA KHƠI 4 - THÁNG 11-2020
RỒNG ĐÁ THÀNH NHÀ HỒ
TRUYỆN NGẮN
RỒNG ĐÁ THÀNH NHÀ HỒ
*NGUYỄN AN BÌNH
Ánh trăng hạ huyền đã lên cao từ lâu và đang
chếch về phía tây như một cái
móc
câu vàng vành vạch treo trên vòm trời thàng tám, mùa thu với tiếng gió thổi vi
vu nhè nhẹ xen lẩn với tiếng rên rỉ của côn trùng càng làm cho không gian chìm
đắm trong thê lương tĩnh mịch. Đêm đã về khuya, trời càng thêm lạnh, ngọn gió
phất phơ lay động những tấm rèm nhung
treo trên lầu vọng nguyệt, ngọn đèn trong phòng hắt dáng một bóng một người
đang đứng yên hình gần như bất động. Hồ Quý Ly đứng yên như thế đã lâu, nhiều
đêm ông vẫn đứng lặng im như pho tượng, thao thức không ngủ được, tâm trạng rối
bời trước tình thế của đất nước. Ông nhìn vào đêm đen, trầm tư. Tin tức cấp báo
từ phương bắc qua những hỏa hiệu được bắn lên từ các phong hỏa đài đặt từ biên
cương Cao Bằng, Lạng Sơn kéo dài đến thànhTây Đô cho thấy tình hình chiến sự đã
cấp bách lắm rồi. Các thám mã cũng lần lượt phi nhanh báo tin về sự chuyển động
của quân địch. Kẻ thù phương Bắc đã bộc lộ ý đồ xâm lược rõ rệt, đã chuyển quân
sát tận biên giới với danh nghĩa phù Trần diệt Hồ thế mạnh như nước vỡ bờ.
Thật ra Hồ Quý Ly cũng dự đoán trước
diễn biến tình hình sự việc nhưng không ngờ chiến sự lại diễn ra nhanh như thế.
Các vì vua cuối đời nhà Trần chỉ biết ăn chơi hưởng lạc, phế mặc triều chính,
còn quan lại, con cháu nhà Trần cũng chỉ mong giữ lấy quyền cao chức trọng tận
hưởng phú qui sợ gian khổ nên những đề xuất cải cách mạnh mẽ của ông về chính
trị, quân sự thường bị quan lại cựu triều dèm pha phản đối, chính vì thế nhiều
lần những đề xuất cải cách ấy không thực hiện được. Biên cương phía nam thì Chiêm
Thành dưới sự chỉ huy của Chế Bồng nga nhiều lần đánh tới Thanh Hóa, thậm chí
đem quân ra tới Thăng Long để quấy nhiễu, cướp nhiều tài vật làm cho cuộc sống
của người dân bao lần khốn đốn, phương bắc thì triều Minh chờ cơ hội nước ta
suy yếu để xâm lược. Là người có tầm nhìn xa trông rộng ông thấy rõ được điều
đó nên càng nung nấu quyết tâm thực hiện hành động cải cách của mình.
Chính
vì thế ông đã hối thúc vua Trần Thuận Tông dời đô về Tây Đô để khi có biến dễ
bề chống đở, tránh áp lực nặng nề của giặc khi đánh vào Thăng Long nhưng cũng
đồng thời mưu tính một kế sách lâu dài: nếu triều Trần không còn phù hợp nữa
thì phải thay thế đi để xây dựng một vương triều hùng mạnh khác mới có thể
chống đở thế lưỡng đầu thọ địch được. Kế sách dời đô của ông lần nầy cũng vấp
phải phản ứng dữ dội của bọn quan lại triều Trần nhưng thế lực của ông lúc nầy
đã đủ mạnh để xoay chuyển tình hình. Thế là một cuộc thanh trừng đẩm máu xảy
ra, những người không theo ý hướng của ông đều nhận lấy những hậu quả khủng
khiếp: kẻ thì chết người bị tù đày, gia sản bị tịch biên. Ngay cả các quan chỉ
vì can gián Hồ Quý Ly không nên dời đô gây xáo trộn tình hình mà nên ở lại Thăng
Long, nơi có núi cao, sông sâu án ngữ, Họ còn cho rằng”Cốt ở đức, không cốt ở
hiểm” nhưng Hồ Quý Ly gạt ngang: : Ý ta đã quyết, không được can gián nữa nếu
không muốn lãnh lấy cái chết”. Thế là tất cả phải im lặng nếu không muốn chọn
lấy cái chết.
Để xây thành Tây Đô, Hồ Quý Ly phải huy động
toàn bộ sức người sức của rất lớn, phu phen tạp dịch rất nặng nề. Người già,
đàn bà, trẻ em đều phải tham gia phục vụ công trình. Ngày ngày, tháng tháng,
dân phu binh lính mệt mõi vào các dãy Tượng Sơn, Hang Ma, Đồi Cốc, Dọc Khoai
chặt cây, đốn củi về đốt lò nung vôi, Lò nung vôi, nung gạch mọc lên nhiều vô
kể cũng không đáp ứng đủ vật liệu để xây thành. Dân công phải bạt đồi, xẻ núi
lấy đá phục vụ công trình, những phiến đá to lớn nặng hàng tấn được khai thác
chuyển về xây thành, công việc vô cùng nặng nhọc, nguy hiểm. Các thợ kỹ thuật,
nghệ nhân cũng phải làm việc suốt ngày đêm, lương thực cung cấp không đủ, đói
ăn, ốm đau, lại nửa vùng đất xây thành nước tù đọng quanh năm nên bệnh dịch
tràn lan làm phu phen chết dần, chết mòn không kể xiết. Đặc biệt là việc chế tác đôi rồng đá đòi hỏi
những nghệ nhân lành nghề trong chạm khắc. Có người đã phải chết vì lỡ chạm sai
một chi tiết không vừa ý với nhãn quan của họ Hồ. Hồ Quí ly đã tuyển chọn từ
các nghệ nhân có tiếng tăm khắp các vùng về để chạm khắc. Tượng rồng được tạc
bằng đá xanh. nguyên khối, khi tạc xong có chiều dài 3 thước 8. Thân rồng thon
nhỏ dài về phía đuôi, uốn bảy khúc, vẩy phủ kín cả thân. Rồng có 4 chi, mỗi chi
có 3 móng ẩn hiện trong các vân mây mềm mại trông rất huyền ảo, sống động vô
cùng. Các khoảng trống dưới bụng và các ô tam giác ghép thành các bậc đều được
chạm những đóa hoa cúc và móc hoa lại thật lượn mềm, tỉ mỉ đến từng chi tiết
một. Đôi rồng khi chế tác xong được đặt nằm song song hai bên đường ngay trung
tâm của tòa thành từ cổng nam đi sang cổng phía bắc của thành Tây Đô tạo một
cảnh quan thật trang nghiêm, hùng tráng. Cứ thế tòa thành xây ròng rã suốt hơn
3 tháng trời mới hoàn thành(1).
Thành xây xong, việc dời đô đã ổ
định, dưới sự ủng hộ của các quan Trần Thiếu Đế là cháu ngoại của ông phải
thoái vị và ra chiếu nhường ngôi cho ông, Hồ Quí Ly yên tâm có thời gian hoạch
định kế sách lâu dài cải cách đất nước theo ý định mình đã vạch ra từ trước,
ông thực hiện một loạt những cải cách có lợi cho đất nước như: Phát hành tiền
giấy “Thông bảo hội sao” thay thế tiền đồng thuận tiện cho việc cất giữ thông
thương mua bán, quan tâm đến giáo dục, sửa chữa chế độ thi cử cho phù hợp, đưa
toán học vào thi cử để tìm người tài. Về quân sự, Hồ Quý Ly ý thức rất rõ ý đồ
xâm lược của nhà Minh phương bắc, ông càng ra sức tập trung xây dựng lực lượng
quân sự hùng mạnh, chú trọng cải tiến kỹ thuật vũ khí, mở xưởng đúc vũ khí,
tuyển thợ giỏi vào làm việc trong các công xưởng quân sự, Hồ Nguyên Trừng đã
chế được loại súng thần cơ có sức công phá mạnh mẽ, thủy binh cũng được trang
bị những chiến thuyến lớn hơn. Bên cạnh đó, ông
chủ trương xây dựng các hệ thống phòng tuyến trên mặt đất để phòng thủ quốc
gia như thành Tây Đô, thành Đa Bang và cả một hệ thống công trình phòng thủ có
quy mô lớn, dài gần 400 km kéo dài từ núi Tản Viên, men theo sông Đà, sông
Hồng, sông Luộc đến cửa sông Thái Bình. Nhưng những điều thực hiện được chỉ là
bước ban đầu, thời gian còn quá ngắn, công việc không phải lúc nào cũng
xuôi chèo mát mái theo ý Hồ Quý Ly, lòng dân còn bất ổn chưa nguôi hướng về
triều cũ, tướng tài lác đác như lá rụng mùa thu, quân lính tập luyện chưa thuần
thục, quân lương còn thiếu thốn nhiều liệu có thể chống đở thế giặc hùng mạnh được
chăng, bao nhiêu mối lo như hằn sâu lên nét mặt của thái thượng hoàng Hồ Quý
Ly. Trong không gian im vắng của đêm khuya như thế, bỗng ông nghe đâu đây có
tiếng đàn tỳ bà vang lên lúc khoan lúc nhặt, lúc xa lúc gần đưa đẩy theo chiều
gió như mang một nỗi sầu vạn cổ, lông mày ông chợt nhíu lại tỏ vẻ không vui. Từ
chổ khó chịu ông lại ngạc nhiên tự hỏi: Tiếng đàn phát ra từ đâu vậy, sao tiếng
đàn như mang một nổi u hoài uất hận khôn nguôi như thế. Ông cố gắng lắng nghe,
hình như tiếng vang lên từ vườn thượng uyển thì phải. Tò mò Hồ Quý Ly khẻ bước
xuống lẩu, chậm rải chân bước theo tiếng đàn đang bay trong gió. Dưới liềm
trăng vàng treo trên ngọn liễu, ông thấy thấp thoáng bóng dáng một thiếu phụ
với y phục trắng tinh đang ngồi trên băng đá cạnh khóm bông hải đường, người
thiếu phụ có mái tóc đen mượt mà óng ả dưới ánh trăng chảy dài xuống bờ vai
thon nhỏ, bàn tay mềm mại đang lướt nhẹ trên từng phím đàn. Dưới bàn tay tài
hoa ấy, cây đàn vang lên những âm thanh
trầm bổng, dìu dặt lúc thì trầm mặc u buồn, lúc thì như thở than ai oán thê
lương vô cùng.
Trong không gian khuya khoắt tĩnh mịch làm cho Hồ Quý Ly như lạc vào một nơi đầy ma
mị, liêu trai. Ông tự hỏi mình đang ở đâu đây và bất giác chợt rùng mình, cái
lạnh như len vào từng đốt sống lưng. Người thiếu phụ nầy là ai? Ma quỷ, tiên
nương hay là hồ ly? sao lại xuất hiện trong đêm hôm khuya khoắt như thế nầy,
ngay trong vườn thượng uyển của ta? Tuy có phần sợ hải nhưng không kiềm chế nổi
sự tò mò, Hồ Quý Ly bước tới gần thêm một chút nữa để nhìn cho rõ mặt người đàn
bà. Dưới vòm trăng hạ huyền, gương mặt thiếu phụ hiện lên thật vô cùng diễm lệ
mà hình như trong đời ông chưa từng thấy vẻ đẹp tự nhiên nhưng lại lôi cuốn như
thế. Trên nét mặt yêu kiều đó lại thoảng lên nét buồn muôn thuở. Ông thử lục
tìm trong trí nhớ xem thiếu phụ nầy có phải người ở trong cung không nhưng
không tài nào nhớ được. Hồ Quý Ly lên tiếng:
- Nàng là ai? Tại sao đêm hôm khuya khoắt lại đàn một
khúc cầm nghe buồn thảm thế? Ta nhớ như chưa từng gặp nàng trong cung của ta
lần nào thì phải?
Người
thiếu phụ đang chìm đắm trong cung đàn, thả hồn mình vào những phím tơ lòng, không
biết có người bên cạnh đang lắng nghe tiếng đàn của mình tự nảy giờ. Nàng chợt
giật mình thoát khỏi trạng thái mơ hồ lãng đãng như khói sương ấy, nhẹ nhàng
đặt chiếc đàn lên chiếc bàn cẩm thạch kề bên, đứng lên vòng tay cúi đầu đáp:
- Tiện thiếp xin ra mắt thượng hoàng.
Hồ Quý Ly ngạc nhiên:
- Nàng biết ta ư?
- Ngài là đấng quân vương, cả đất nước nầy
đều biết chẳng lẽ thiếp lại không biết người ư?
- Nàng
chưa trả lời câu hỏi của ta.
- Thiếp không phải là người trong cung. Nhà
thiếp ở dưới chân thành đông của tòa thành nầy.
Hồ Quý Ly lại càng ngạc nhiên:
- Dưới chân thành đông ư? Nàng làm sao vào
đây được?
- Không có nơi nào thiếp không thể đến được
thưa thượng hoàng.
Không để cho Hồ Quý Ly hết ngạc nhiên,
người thiếu phụ tiếp lời:
- Tên
thiếp là Bình Khương, là vợ của chàng cống sinh Trần Công Sỹ được thượng hoàng
tin tưởng giao việc giám sát, đốc thúc phu phen xây bức tường thành phía đông.
Hồ Quý Ly nhíu mày suy nghĩ trong giây
lát, chợt ông nhớ ra điều gì đó. Thì ra người thiếu phụ đứng trước mắt mình là
vợ của Trần Công Sỹ người được ông giao phó xây dựng đoạn thành phía đông. Ông
nhớ lại tất cả rồi. Để gấp rút dời đô từ Thăng Long về Tây Đô, Hồ Quý Ly đã huy
động một số lượng lớn dân quân ngày đêm xây thành, đắp lũy, phu phen làm việc
cực nhọc vô cùng, ngày đêm không nghỉ để đảm bảo tiến độ nội trong 3 tháng phải
hoàn thành “kinh đô bất khả chiến bại”, Trong tình thế dầu sôi lửa bỏng lúc ấy,
các tường thanh các mặt khác tới kỳ đã từng bước hoàn thiện công trình thì đoạn
thành phía đông do Trần Công Sỹ phụ trách xây vừa xong lại đổ sập xuống không
rõ nguyên nhân khiến cho Hồ Quý Ly vô cùng tức giận. Ông nghi ngờ Trần Công Sỹ
có ý đồ phản nghịch nên cố ý làm chậm trể công việc xây thành làm lỡ việc lớn.
Trong cơn giận dữ, Hồ Quý Ly đã ra lịnh cho quân sĩ chôn sống chàng vào vị trí
bức tường thành vừa bị đổ để làm gương răn đe tất cả những ai bất tuân thượng
lệnh và giao phó trọng trách xây tường thành tiếp tục lại cho viên quan khác.
Sau nầy ông còn nghe quần thần kể lại, vợ Trần Cống Sỹ tên là Bình Khương nghe
tin đã chạy đến ngự sử đài than khóc kêu oan cho chồng, nhưng ai nấy đều sợ uy
của Hồ Quý Ly không dám vào bẩm báo lại. Vì quá tức giận, nàng chạy đến nơi
chồng bị chôn sống, dùng toàn bộ sức lực để xô ngả bức tường dầy định mệnh ấy mong
tìm thấy xác của chồng trong đó nhưng bức tường không hề lay chuyển. Vô cùng tuyệt
vọng, nàng liều mạng đập đầu vào bức tường thành để tự vẫn theo chồng. Phiến đá
nơi nàng tuẩn tiết in sâu dấu vết đầu người và đôi bàn tay cào cấu của nàng.
Cảm thương trước tấm lòng chung thủy sắt son của người thiếu phụ, người dân nơi
đây đã lập đền thờ nàng ở sát vách tường cửa phia đông thành Tây Đô. Sự việc
xảy ra đã lâu Hồ Quý Ly hầu như không còn nhớ nếu người thiếu phụ không nhắc
đến tên chồng mình. Hồ Quý ly nghĩ đến đây đã thấy rờn rợn vì biết người đang
đối diện với mình chỉ là hồn ma bóng quế mà thôi, chẳng lẽ nàng ta hiện hình về
đòi đền mạng ta chăng?(2)
Hồ Quý Ly cố giữ bình tĩnh, nhưng câu hỏi có
vẻ hơi gượng gạo::
- Ta nghe người báo là nàng đã tự vẫn chết
rồi kia mà.
Nàng Bình Khương nhìn nhà vua, giọng nói u
buồn xen lẫn oán trách:
- Người nói không sai. Thiếp đã không còn sống
trên cõi đời nầy, thân xác vùi chôn dưới ba tất đất từ lâu, mồ chắc đã xanh cỏ,
nhưng linh hồn còn mang nhiều nỗi u uất, phảng phất trên trần gian chưa thể
siêu thoát được.
Hồ
Quý Ly có vẻ giận dữ, gằn giọng:
- Điều gì làm cho linh hồn nàng không tan?
Chẳng lẽ với cái tội làm hỏng việc lớn của ta chồng nàng bị giết oan khuất lắm
sao?
- Thưa thượng hoàng , đối với người cái
chết của một chàng cống sỹ chẳng qua chỉ là con giun cái kiến mà thôi. Hơn nữa
trong cơn thịnh nộ quyết định tàn bạo ấy cũng để thỏa mãn quyền uy tối thượng
của mình mà thôi thì còn suy xét làm gì nỗi oan khuất của người dân chứ. Thượng
hoàng có biết tường thành phía đông nơi chồng thiếp phụ trách xây dựng trên một
nền đất yếu, phía dưới có mạch nước ngầm ăn thông ra Lỗi Giang nên không thể
chịu đựng sức nặng hàng ngàn tấn của tường thành được, đổ sập là điều không thể
tránh khỏi được. Thiếp đã đến ngự sử đài kêu oan nhưng không ai chú ý nghe lời giải
trình của thiếp.
Hồ Quý Ly tỏ vẻ nghi ngờ:
- Làm sao nàng biết tường thành xây trên
đất yếu? Phải chăng nàng nói để chạy tội khi quân của Trần Công Sỹ chăng?
Bình Khương có vẻ không vui:
- Người trần không thể biết được điều bí
mật nằm trong lòng đất thưa thượng hoàng. Hình như trong xử lý công việc người
chưa bao giờ tin tưởng một ai. Thiếp biết thượng hoàng là người có chí lớn,
người dời đô về đất nầy để mưu đồ đại sự, xây dựng một vương triều hùng mạng để
lưu danh muôn đời. Nhưng dục tốc bất đạt, xây thành một công trình to lớn như
thế chỉ trong vòng 3 tháng chỉ bằng sức lao động tay chân cua con người là một
việc làm kinh khiềp chẳng khác gì việc dời non lầp biển, đã làm tài nguyên đất
nước kiệt quệ, sinh linh dân đen bị nướng vào lửa đỏ. Làm vua chỉ muốn người ta
phục tùng mệnh lệnh, chỉ xem chung quanh mình thấy ai cũng có thể đồ phản
nghịch, nghi ngờ tất cả mọi thứ dù sự thật hiện ra trước mắt và luôn dùng quyền
uy để bức hại người khác thì không thể là một đấng minh quân được.
Nếu như bình thường, chắc chắn Hồ Quý Ly
sẽ nổi cơn lôi đình thịnh nộ, người dám nói ra câu phạm thượng đó thế nào cũng
thịt nát xương tan, nhưng biết Bình Khương là người đàn bà khác thường, chỉ là
hồn ma bóng quế, vất vưỡng trên đầu cây ngọn cỏ thì cơn giận cũng nguôi đi, giận
dữ cũng chẳng có ích gì, Hồ Quý Ly kìm
nén cơn giận trong lòng nói:
- Ta tạm tin lời nàng vậy nhưng nàng nói
ta dùng bạo quyền để cai trị dân chẳng phải quá đáng sao?
- Đây không phải là lời nói của thiếp mà
đó là lời truyền tụng trong dân gian. Người ở trong cung cấm cách ly với đời
thường, mắt không được thấy tai không được nghe, làm sao hoàng thượng có thể
thấu hiểu được nỗi khổ của dân đen kia chứ? Bài đồng dao mà bọn trẻ con nghêu
ngao hát khắp kẻ chợ ai mà không hay không biết.
Hồ Quý Ly lộ vẻ ngạc nhiên:
- Bài hát đồng dao ư? Bài hát nói điều gì
thế?
- Thiếp xin đọc hầu hoàng thượng xin
trước hết xin người không được giận dữ
Hồ Quý Ly gật đầu:
- Được. Ta hứa. Nàng đọc ta đi
Bình Khương bắt đầu đọc:
Bạt núi
để xây thành
Phu phen nhiều lao
khổ
Vợ con lìa cha anh
Thành xây xong lại
sập
Xương chất đầy kè
đá
Hào sâu đỏ máu dân
Thân gầy còm đói
rách
Ai oán thấu trời
xanh.
Những tưởng lục
thập ký
Nào ngờ chỉ sáu năm
Thành cao dù muôn
trượng
Không lớn bằng lòng
dân.
Dứt lời, Bình Khương nói như nói chính
mình:
- Long xà ẩm
thủy lục niên ký chủ. Số trời đã định không thể cải mệnh được. Tiếc thay tích
củi ba năm đốt cháy một giờ. Chỉ tội cho muôn dân vô tội một lần nữa lại nướng
mình trong lửa đỏ hung tàn của giặc ngoại xâm.
Hồ
Quý Ly nghe những lời nói của Bình Khương như từ cỏi âm vọng về. Ông chợt biến
sắc không hiểu vì sao người thiếu phụ nầy lại biết điều bí mật mà chỉ hai cha
con ông biết mà thôi. Trong đầu ông miên man suy nghĩ về điều nàng ta vừa nói. Mưu
đồ xây kinh đô mới để thừa dịp truất ngôi nhà Trần đã manh nha từ lâu trong đầu
của Hồ Quý Ly, mặc dù nắm giữ quyền cao chức trọng, dưới một người trên vạn
người, nhưng Hồ Quý Ly nhận thấy các ông vua nhà Trần đã quá bạc nhược, u mê
nên muốn tự mình thành lập một vương triều mới. Ông tin rằng với tài năng của
mình sẽ xây dựng một đất nước hùng mạnh, phía nam có thể đè bẹp Chiêm Thành,
phía bắc có thể dựa vào thành cao hào rộng thế núi hiểm trở có thể chống lại kẻ
thù phương Bắc. Để thực hiện việc dời đô, xây dựng một vương triều vững mạnh
cho riêng mình, Hồ Quý Ly đã bí mật cùng một vài cận thần tâm phúc của mình đi
tìm thế đất tốt để xây thành. Khi thuyền xuôi dọc theo sông Mã đến động An Tôn
ông thấy nơi đây thế núi hiểm trở, đất đai trù phú, hình thù như hình quả ấn
của trời, sông Mã như long mạch dài hàng ngàn dặm, xung quanh còn có nhiều phụ
lưu bắt nguồn từ Trường Sơn như sông
Luồng, sông Âm, sông Chu, sông Bưởi giống như những chi long mạch chầu vào long
mạch chủ ông rất vừa lòng, ưng ý.
Đứng trên núi cao, có thể ngắm nhìn kỷ lưỡng địa
thế xung quanh vùng động An Tôn. Cảnh quan thật hùng vĩ, địa thế vô cùng hiểm trở.
Phía đông nam có núi Đốn làm tiền án, tây bắc có núi Song Tượng. Một con voi
chầu về hướng bắc, một con khác lại quay đầu về hướng nam canh giữ núi Mâm Xôi.
Phía Tây Nam có 5 ngọn núi đá vôi: 3 ngọn gọi là Kim Ngọ(ngựa vàng), 2 ngọn
khác gọi là Kim Ngưu(trâu vàng). Đây là một mỏ đá vô cùng to lớn có thể sử dụng
để xây thành vững chắc. Thời bình với đồng ruộng phì nhiêu có thể cày cấy tích
lũy lương thực, thời chiến có thể dựa vào thế núi hiểm trở tự nhiên, với thành
cao hào sâu cự địch được.
Bên
ngoài có nhiều dãy núi vòng cung bao bọc vây kín bốn phương tám hướng. Vòng
trong là sông Mã, sông Bưởi lượn tròn như những chiến hào tự nhiên vây quanh. Ở
trong cùng, một khu đất nổi lên như một cái ấn của trời, Bên trên là vòm trời
xanh như chiếc lọng che cho cái ấn thật huyền ảo. Từ ngã ba Bông nối vài ngã ba
Đầu là một nhánh chảy vào đền Hàn, Châu Tử xuống bến Lèn ra cửa Lạch Trường.
Một nhánh qua đất Hàm Rồng đổ ra cửa Hới tạo thành thể lưỡng long chầu nguyệt.
Thành xây trên động An Tôn nên gọi là thành An Tôn, còn gọi là thành Tây Đô(3)
Là người am hiểu phong thủy, Hồ Quý Ly
khi chọn thế đất nầy để xây thành ông rất lấy làm tâm đắc, nói với các con
mình: Đất nầy là đất Thạch bàn long xà lục thập niên ký(có nghĩa thế đất như
rồng chầu rắn cuốn nầy vững như bàn thạch có thể trụ được ít nhất 60 năm) nhưng
Hồ Hán Thương, người con trai thứ của Hồ Quý Ly, am hiểu phong thủy sau khi xem
kỷ thế đất đã nói với ông: “Con lấy làm lạ, như phụ hoàng nói: đất nầy đúng là
đất rồng chầu rắn cuốn có thể phát tích đế vương nhưng con xem đi xem lại có
lúc lại giống thế Long xà ẩm thủy lục niên ký chủ, chỉ phát được 6 năm thôi. Hồ
Quý Ly cho rằng kiến thức phong thủy của Hồ Hán Thương chưa tinh tường nên cũng
không chú ý lắm vào nhận định của con.
Câu chuyện phong thủy nầy chỉ có cha con
ông biết mà thôi, tại sao dân gian lại biết được mà truyền tụng qua bài đồng
dao nầy? Có thật không chuyên gì cũng không thể qua mắt thế gian chăng? Bài hát
đồng dao thật sự làm cho ông bối rối, lo ngại. Hồ Quý Ly cũng biết những hành
động quyết liệt của mình tranh đoạt ngôi vị nhà Trần cũng là một điều mà nhiều
người không phục, nên khi đã cũng cố được ngôi vị, chỉ sau 7 tháng làm vua ông
đã nhường ngôi lại cho Hồ Hán Thương để làm thái thượng hoàng cũng nằm trong
mưu tình của ông. Lẽ ra theo lễ tục, ông phải nhường ngôi cho người con cả là
Hồ Nguyên Trừng. Hồ Nguyên Trừng là một người rất giỏi võ nghệ, lại là người có
tài thiết kế vũ khí lợi hại rất xứng đáng được ông truyền ngôi nhưmg lại là con
của người vợ cả, không có quan hệ huyết thống với dòng tộc họ Trần , nếu lập
Trừng lên làm vua, chẳng khác gì như đổ thêm dầu vào lửa, khiêu khích sự chống
đối của đám quan lại, giới sĩ phu và một bộ phận lớn nhân dân trong nước, đồng
thời cũng tạo thêm lí do cho giặc Minh dễ bề thực hiện ý đồ xâm lược nước ta
với chiêu bài “phù Trần diệt Hồ”, vì thế Hồ Quý Ly quyết định chọn người con
thứ là Hồ Hán Thương lên giữ ngôi vua, Một điều dêc hiểu Hồ Hán Thương là con
của công chúa Huy Ninh, vợ lẽ của Hồ Quý Ly, đồng thời cũng là con ruột của
Thượng hoàng Trần Nghệ Tông, Hán Thương gọi Nghệ Tông bằng bác, gọi vua Thuận
Tông(con Nghệ Tông) bằng anh và gọi vua Kiến Tân(con Thuận Tông) bằng cháu, nên
việc lập Hồ Hán Thương làm vua cũng nằm trong tính toán, trù liệu của Hồ Quý Ly
cả nhằm lôi kéo những người còn lưu luyến với triều đại cũ.
Như đoán được sự băn khoăn trong lòng Hồ Quý Ly,
Bình Khương nói nhẹ nhàng:
- Câu chuyện đối đáp giữa người và thế tử
Hán Thương về long mạch, cũng như việc lập thế tử Hán Thương lên làm vua thay
vì Nguyên Trừng thượng hoàng có thể giấu giếm được dân đen con đỏ chứ làm sao
che mắt được trời phật thánh thần ma quỷ, xin người chớ lấy làm ngạc nhiên như
thế.
Hồ Quý Ly nghe nàng nói hình như tỉnh ngộ.
Thì ra những mưu tính của ông dù ngấm ngầm bí mật hay công khai cũng không qua
khỏi thiên cơ. Có điều mưu sự tại nhân, thành sự tài thiên mà thôi. Chẳng lẽ bao
công sức ông đổ ra với hy vọng tạo dựng một vương triều hùng mạnh với những cải
cách lớn lao, lưu danh cho muôn đời sau lại thất bại thế nầy ư?
Hồ Quý Ly thở hắt một hơi dài buồn bã,
ngước nhìn bầu trời đêm, những ngôi sao lấp lánh, xa tít trên bầu trời kia có
hiểu được tâm trạng ngổn ngang của ông lúc nầy không? Ông đang suy nghĩ gì
trong đầu không ai có thể đoán được. Vài tiếng chim đêm đập cánh bay đi để lại
tiếng kêu nghe não nuột, mấy cành liễu lay động tạo thành những bóng đen lăn
quăn trên mặt đất như mấy con rắn đang trườn mình quăng tới tìm mồi, vài chiếc
lá rơi, tiếng gió thổi lạo xạo cũng không làm cho ông thoát khỏi nỗi trầm tư,
muộn phiền. Ánh trăng hạ huyền đã dần dấn mờ nhạt. Phía chân trời bắt đầu xuất
hiện một quầng sáng báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Một ngôi sao lẻ loi, muộn
màng băng ngang qua vườn thượng uyển mất hút về phìa bầu trời xa xôi đầy bí ẩn.
Trong thời khắc ấy, tiếng Bình Khương hình như thoảng bay đi trong gió:
- Âm đức
của hoàng thượng không dầy, chính chính sách hà khắc, coi sinh mạng dân đen như
ngọn cỏ, bao nhiêu xương máu người dân vô tội đã đổ xuống để xây thành đắp lũy,
tiếng than oán ngút trời cao đã làm cho long mạch bị đứt đoạn không phát triển
được. Thời cuộc sẽ có nhiều biến chuyển khôn lường, lòng người lại đang ly tán,
không thể quy về một mối. Chỉ mong hoàng thượng sáng suốt mới mong tình thế thay
đổi phần nào, cục diện may ra sáng sủa hơn. Không một triều đại nào có thể
thống trị thiên hạ bằng bạo quyền được, muôn đời phải biết lấy dân làm gốc
thiên hạ mới thái bình, đất nước mới không rơi vào ách thống trị của ngoại bang.
Người đã tạo ra được một cái cớ có một không hai để kẻ thù xâm lăng nước ta với
danh nghĩa phù Trần diệt Hồ, rồi sau đó đất nước sẽ ra sao chắc người cũng đoán
được. Mấy lời khẩn thiết tự đáy lòng xin hoàng thượng nhớ lấy.
Khi Hồ Quý Ly ngước lên muốn hỏi Bình Khương
điều gì đó thì không thấy nàng đâu nữa, xa xa chỉ thấy một bóng trắng lướt qua
hàng cây rồi mờ dần mất hẳn. Hồ Quý Ly nhìn theo, lẩm bẩm như nói với chính
mình:
- Nàng đã theo ngọn gió bay đi rồi về nơi
mà nàng cần đến, phải chi ta nghe được những lời nói của nàng sớm hơn, có lẽ
cuộc đời ta mắc nợ với nàng, với chồng nàng với cả dân tộc nầy. Cuộc đời ta
chấm hết ta không hề hối tiếc, chỉ tiếc sự nghiệp lớn chưa hoàn thành, người
đời sau có hiểu được chí lớn của ta chăng?
Lần đầu tiên
trong cuộc đời mình, Hồ Quý Ly không còn tin vào những quyết đoán táo bạo của
mình nữa, chắc ta đã già rồi. Ông chợt thở dài buồn bã.
*
Quả đúng
như lời nàng Bình Khương nói, Tháng 9 năm 1406 quân Minh phát động chiến tranh
xâm lược nước ta với chiêu bài phù Trần diệt Hồ, mặc dù đã tích cực phòng bị,
xây dựng thành lũy kiên cố và huy động quân binh cao nhất, đặt quân phòng ngự giữ
những nơi hiểm yếu quan trọng nhất nhưng quân nhà Hồ liên tiếp thua nhiều trận
liền. Đúng như lời Hồ Nguyên Trừng (con trai Hồ Quý Ly) từng nói với cha mình
“thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo”. Cuộc chiến tranh đã thu hút
được một số lực lượng lớn người dân trong nước đứng lên chống lại nhà Hồ, ngay
cả trong quân binh nhà Hồ cũng có nhiều người quay đầu chống lệnh. Chiến tranh
giữa hai bên nhanh chóng ngã ngũ, quân binh nhà Hồ liên tiếp thua các trận đánh
lớn ở thành Đa Bang, Hàm Tử. Tháng 4/1407 quân Minh đánh tới thànhTây Đô. Cầm
cự chẳng bao lâu thì thành vỡ, cha con Hồ Quý Ly kéo tàn binh chạy về cửa biển
Kỳ La-Hà Tỉnh thì quân Minh đuổi theo rất gấp. Đến ngày 11,12 thì lần lượt Hồ
Quý Ly, Hồ Nguyên Trừng và Hồ Hán Thương đều bị giặc bắt. Nếu tính từ năm 1400,
khi Hồ Quý Ly truất ngôi nhà Trần, tự lập làm vua, đóng đô ở Tây Đô cho đến
tháng 4 năm1407 khi cha con Hồ Quý Ly bỏ thành chạy về Kỳ La lánh nạn và bị
giặc bắt thời gian chỉ hơn 6 năm, phải chăng ứng với lời tiên đoàn nhà Hồ chỉ
tồn tại được 6 năm của Hồ Hán Thương hay là ý trời trong bài đồng dao mà nàng
Bình Khương đã đợc cho Hồ Quý Ly nghe?
Có một
điều cần phải nói thêm với bạn đọc, cùng thời gian khi cha con Hồ Quý Ly bị
giặc bắt giải về Tàu, Thành Tây Đô cũng xảy ra một câu chuyện lạ lùng: Trời đất
đang quang đãng, trong vắt bỗng sấm chớp từ đâu nổi lên đùng đùng, từng trận
mưa lớn đổ xuống như trút nước, lũ từ thượng nguồn sông Mã, sông Bưởi, sông Chu
kéo về ồ ạt như một trận đại hồng thủy. Trời tối mịt mùng, sấm chớp rền vang
khắp nơi, nước sôi réo ùng ục như thiên binh vạn mã rầm rập từ đâu kéo về, lẫn
trong tiếng gió hú, tiếng sấm vang như còn có tiếng những oan hồn uổng tử cất
lên tiếng kêu bi thương, ai oán như đòi mạng, nhà nào nhà nấy đều hoảng sợ xanh cả mặt mày, ôm
chặt lấy nhau mà khóc, người bình tĩnh hơn cuốn vội vài vật dụng cần thiết rồi bồng
bế nhau kéo lên đồi cao, núi sâu lánh nạn. Mãi đến ba bốn hôm sau trời mới
quang, mưa mới tạnh, mọi người mới lũ lượt nhau kéo về quê cũ. Trong thành Tây
Đô thật tiêu điều xơ xác, một phần bị giặc Minh cướp bóc tàn phá, một phần do
tác hại khủng khiếp của cơn lũ vừa tràn qua. Rác rến, bùn xình, xác súc vật
chết vương vãi khắp nơi, điều đặc biệt đôi rồng đá được chế tác tuyệt mỹ, tượng
trưng cho sức mạnh vương triều nhà Hồ tự nhiên biến mất không còn để lại một
chút dấu vết nào, không ai hiểu vì sao?(4)
Tháng 1/2018
NGUYỄN AN BÌNH
______________________________________________________________
(1) Theo truyền thuyết: Thành Tây Đô được xây trong 3 tháng thì xong
nhưng xét về khối lượng công trình có người cho rằng xây trong 3 năm hay nhiều
năm mới xong.
(2) Hiện nay đền thờ nàng Bình
Khương vẫn còn tồn tại sau hơn 600 năm với nhiều lần trùng tu. Ngôi đền tọa lạc
dưới chân bờ thành phía đông thuộc làng Đông Môn, xã Vĩnh long huyên Vĩnh lộc
tỉnh Thanh Hóa. Trong đền còn lưu giữ một phiến đá kỳ lạ có in hình giống như
đôi bàn tay và chiếc đầu người phụ nữ, người dân cho rằng đó là vết tích đập
đầu tự tử kêu oan cho chồng của nàng Bình Khương.
(3) Theo sách “Thành nhà Hồ và những câu chuyện xây thành” của tác giả Phạm Văn Chấy
(4) Theo ông Nguyễn Xuân Toán, Phó giám đốc Trung tâm Bảo tồn di sản
thành nhà Hồ thì đôi rồng đá trên được người Pháp phát hiện lại vào năm 1938
khi họ làm một con đường nội địa trong thành nhưng cả hai đều bị mất đầu.
nguyên nhân của việc đôi rồng mất cả đầu có nhiều giả thuyết được đặt ra, nhưng
chưa giả thuyết nào thuyết phục vì chưa trưng ra được những chứng cứ rõ ràng có
thể chấp nhận được.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét