Thứ Bảy, 2 tháng 12, 2023

BÀI CẢM NHẬN VỀ TẬP THƠ "LY HƯƠNG"

 BÀI CẢM NHẬN VỀ TẬP THƠ "LY HƯƠNG"

 CỦA NHÀ THƠ LƯU LÃNG KHÁCH TRÊN TẬP SAN SÔNG QUÊ SỐ 16 THÁNG 12-2023

KHÚC LY CA CỦA NHÀ THƠ NÚI ẤN SÔNG TRÀ



Cảm nhận tập thơ LY HƯƠNG

 

LƯU LÃNG KHÁCH, KHÚC LY CA CỦA NHÀ THƠ NÚI ẤN SÔNG TRÀ

                                                         *Nguyễn An Bình

 

Đọc tập thơ Ly Hương của Lưu Lãng Khách là chúng ta đọc nỗi lòng của một người viễn khách xa quê được diễn đạt bằng thơ. Những xung đột trong nội tâm với niềm khát khao mang đầy nỗi nhớ không sao diễn tả hết bằng lời lại được diễn giải bằng những câu thơ chan chứa tình cảm chân thật đến nao lòng, phải chăng nhờ thế mà Ly Hương vẫn luôn là giọt mật được nuôi cấy bằng tinh hoa của muôn loài thảo mộc, là tơ vàng óng ả của kiếp tằm nhả tơ chỉ để làm vương vấn lòng người?

Nhà thơ Lưu Lãng Khách tên thật Nguyễn Duy Toàn, quê Nghĩa Hà, Tp Quảng Ngãi. Thời trẻ anh có thú giang hổ, rày đây mai đó nên khi bắt đầu làm thơ viết văn anh tự lấy bút danh: Lưu Lãng Khách(Kẻ lãng du nơi trần thế). Tôi quen nhà thơ Lưu Lãng Khách khá lâu- hơn mười năm, có lẽ là duyên tao ngộ của những người rong chơi cùng chữ nghĩa và cũng thật tình cờ lại cùng trôi dạt về quận 7- Tp Hồ Chí Minh, (nơi anh chọn làm nơi dừng chân để trả nghĩa vợ chồng cùng người vợ tào khang đã nhiều năm thui thủi một mình gánh vác việc gia đình nuôi ba đứa con thơ dại khi ông chồng chưa chịu dừng bước lãng du giang hồ), nhà lại không xa lắm nên có dịp anh em hẹn nhau ngồi cà phê hoặc dăm khi cùng bạn bè văn chương bù khú cho vơi tháng rộng năm dài của buổi hoàng hôn. Chính những lúc ngà ngà say đó mới hiểu hết được tâm hồn của kẻ tự cho mình là người lãng du nơi chốn ta bà đầy bụi bậm.

Tập thơ Ly Hương là tập thơ ngắn, mỏng khoảng 100 trang với 79 bài thơ viết bằng nhiều thể loại khác nhau và trình bày khá trang nhã nhưng lại có một độ dày về thời gian thể hiện cũng như in đậm dấu chân phiêu lãng của một lãng tử trên khắp miền đất nước. Từ dãy đât miền Trung đầy nắng gió ra đi(Núi Ấn sông Trà), anh lên miền cao nguyên mù sương(Sơn nữ LangBiang), rồi ngược ra Bắc lặng người trước kinh đô nước Việt xưa(Về thăm kinh đô Văn Lang, Sĩ Nhiếp - Luy Lâu), xuôi về đồng bằng tắm mình trong gió biển ban mai(Bình minh trên bãi Thùy Vân), thậm chí đôi lúc anh muốn xuyên không ngược vào huyền sử(Lung linh truyền thuyết Tiêu Tương, Tiêu Tương huyền tích...), ở nơi nào hồn thơ của anh đều muốn chìm đắm,  đều muốn say tình, đều muốn nấn níu để bước chân luôn bị lần khân trên các nẻo về.

       Tập thơ Ly Hương viết nhiều về nỗi nhớ quê. Quê hương là gì đi xa sao ta lại nhớ? Phải chăng đó là dòng sông bến nước con đò, phải chăng đó là hình ảnh mẹ cha ngày đêm mòn mỏi đợi chờ bước đứa con hoang trở về, phải chăng đó là hình ảnh người vợ hiền cam phận nuôi con cho chồng thỏa mộng viễn du sông hồ? Nỗi nhớ trở thành nỗi buồn viễn xứ khôn nguôi:

Nỗi nhớ khắc khoải trong lòng:

Anh lớn lên bên hữu ngạn sông Trà

Nơi dòng chảy sắp hòa vào biển lớn

Đời cơm áo nào phải là chuyện giỡn

Buổi đăng trình nghe lạnh buốt xương da...

(Nỗi lòng viễn xứ)

Anh hình dung ngày trở về trong giọt lệ yêu thương:

Trở về sau cuộc lãng du

Sông Trà Giang đã sang thu dịu lành

Ơ kìa mắt mẹ long lanh

Tim vui rót lệ tưới vành môi khô

(Mơ vào Vu lan)

    Quê hương như máu thịt không thể cắt lìa, tình cố hương luôn ăn sâu trong tâm hồn người con phiêu bạt:

“Quê anh miền bão lũ/Bên hữu ngạn sông Trà/Nơi sông về với biển/Quen lở bồi,phù sa/Buổi đăng trình vội vã/Ngả nón chào quê hương/Bao năm đời phiêu bạt/Dòng xanh nào vương vương”

(Tình cố hương)

   Hay nỗi bơ vơ khi trở về bên dòng sông quê hương:

“Anh như bao người con sông Trà

Nhưng ba mươi năm hơn đời bôn ba phương xa

Đầu phau phau bông lau nay về thăm mẹ cha

Con hư chăng sao quên đường về nhà

Sao bơ vơ bên sông Trà chiều tà...”

(về thăm mẹ cha)

    Trên bước đường xa xứ, ở đâu đó anh bắt gặp vẻ đẹp của thiên nhiên, con người, cô gái đẹp thì trái tim của anh lại có dịp rung lên với những vần thơ mang đầy cảm xúc:

“Thăm miền phế tích Luy Lâu

Hồn hoang đường cũng nhuốm màu rêu phong

Thánh Nam Giao lắm đức công

Đền lăng diện mạo đau lòng hậu sanh...”

(Sỹ Nhiếp – Luy Lâu)

Hay:

“Có phải em là đỉnh trời hoang dại

Vén truyền thuyết Langbiang em bước vào đời

Để đem xuân con nai rừng ngơ ngác

Ngọn lửa nào cháy rực mãi em ơi”

(Sơn nữ Langbiang)

Anh cũng rất thích làm những bài thơ theo dạng bình thanh, câu chữ chỉ toàn thanh bằng có thể kể ra vài bài trong tập thơ: Thiên thu tình buồn, Xuân quên, Còn gì mẹ ơi!, Bao năm anh về, Cô làng chài, Đàn – trăng ..., ở những bài thơ nầy ta thấy anh chịu ảnh hưởng rất nhiều hương vị thơ Bích Khê, người nổi tiếng với bài thơ Tỳ Bà. Cũng hay đó chứ, “tâm sinh ý, ý sinh tình” mà, vòng tuần hoàn xoay chuyển có gì lạ đâu:

“Khuya thu nhìn trăng sao/Nâng cung đàn thanh tao/Xuyên hư huyền sương mây/Tam u trầm hư hao/Du thuyền trên sông Trà/Chèo khua hoài Tầm Dương/Guitar rung tỳ bà/Mưa tràn run cung thương”

(Đàn – trăng)

   Ở một bài thơ khác:

“Mười năm về thăm sông Trà/Mười năm tàn khô cha già/Mười năm bao người qua đời/Mười năm tưa nhàu tình ca/Mười năm còn ta không ta”

(Về thăm sông Trà)

        Đôi khi chỉ là một chiếc lá rơi cũng làm cho tâm hồn một mối cảm xúc u hoài khó tả:

“Chỉ là chiếc lá thu rơi

Sao nghe như thể một đời rụng sa

Chỉ là chiếc lá bay qua

Lòng hoang mang ngỡ như là trăm năm”

(Chỉ là chiếc lá)

     Thơ tự do mang ý tưởng cũng khác lạ:

“Tia chớp lóe ngang trời/ Màn đêm lõa thể/ Có gì đó trong bóng đêm chợt hé/ Đứa trẻ chào đời/ Bầu trời tan loãng/ Những ướt mơ sột soạt chuyển mình/Cây khát vọng đâm chồi trước buổi bình minh...”

(Có gì đó trong bóng đêm)

                  *

         Hồ Nghĩa Phương một người bạn thơ khá thân thiết của anh hiện đang sinh sống ở quê nhà Quảng Ngãi đã có nhận xét khá chính xác về thơ anh: “Thơ như nguồn động lực giúp Toàn vượt qua bao khó khăn, theo bước chân lãng du khắp mọi miền đất nước. Những cảm xúc ghi lại được thể hiện qua câu chữ, những bài thơ nặng tình nghĩa với quê hương, với vùng đất, con người mà anh đi qua trải nghiệm, nỗi nhớ thương người thân trong gia đình, và một vài bóng dáng “nàng thơ” ở nơi anh đến.”.

       Còn nhà phê bình Phạm Văn Hoanh đọc tập thơ Ly Hương từ khi còn là bản thảo thì có nhận định: “Những bài thơ trong tập thơ chính là những giọt nước mắt mà ông đã khóc trên bước đường thiên di. Bây giờ đây, ông đã thanh thản và quyết định dừng chân nơi đất khách quê người nhưng tấm lòng ông vẫn đau đáu về cố hương qua những bài thơ rung cảm chạm đến trái tim người đọc”

Xếp tập thơ lại ta thấy cách dùng từ trong thơ anh tuy không thật mới thậm chí ước lệ: buổi đăng trình, quy cố hương, thiên thu, chiến mã, chinh y...có lúc cách thể hiện rất tự nhiên chủ nghĩa: Em bé cười “toe toét” đón mưa rơi, nhưng cũng có lúc cách dùng từ hơi lạ lẩm làm ta thú vị: Đời “trấu tro” còn ẩn hiện trên da, hay Mưa rơi “cóng” nẻo muộn phiền...Và với riêng tôi, tập thơ Ly Hương dánh dấu bước trưởng thành trong thơ anh, đưa người đọc đồng hành trên các nẻo đường thơ ca của người viễn khách, đó cũng thật sự là “Khúc ly ca của nhà thơ miền Núi Ấn Sông Trà” vậy.

 

NGUYỄN AN BÌNH



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét