CẢM NHÂN TÁC PHẨM “CÓ MỘT MÙA TRĂNG XA NHƯ BIỂN”
CỦA CÁI TRỌNG TY
*LƯƠNG THIẾU VĂN
Ở ngoài đời thực tôi chưa từng gặp mặt hay quen nhà thơ Cái Trọng Ty, nhưng qua lời kể của nhà văn Phạm Văn Nhàn cùng định cư chung với anh ở Houston đó là một người hiền hậu, dễ gần gũi, còn với Tô Thẩm Huy thì “Anh lành như đất, nhỏ nhẹ như mưa phùn tháng giêng”. Tôi đọc thơ anh đã lâu trên các trang của Trần Thị Nguyệt Mai, Văn Việt, Cái Trọng Ty, Trung Tâm Văn Bút Nam Hoa Kỳ... nhưng vẫn chưa có cái nhìn khái quát về thơ anh kịp đến khi nhà văn Nguyên Minh(chủ biên tập san Quán Văn) gởi tặng tôi tập thơ “Có Một Mùa Trăng Xa Như Biển” do nhà xuất bản Thư Ấn Quán in trong lần anh về Việt Nam gởi lại nhờ anh Nguyên Minh tặng lại các bạn thơ thì tôi mới có dịp đọc tìm hiểu kỷ thơ anh hơn.
Tập thơ “Có Một Mùa Trăng Xa Như Biển”
là tập thơ đầu tay của Cái Trọng Ty sau khi định cư qua Mỹ, đã có một số bài
thơ đăng trên báo, tạp chí người Việt. Đây là ấn bản in lần thứ ba có bổ sung. Sách dày192 trang, in đẹp với bìa láng, gồm
khoảng 63 bài thơ của Cái Trọng Ty và phụ trang gồm 7 bài cảm nhận của 7 tác giả là Phạm Văn Nhàn, Phan Xuân Sinh, Lương Trung Thư, Đinh Cường,
Nguyễn Âu Hồng, Trần Yên Hòa, Tô Thẩm Huy. Ta hãy đi vào cõi thơ của Cái Trọng
Ty để thấy hơi thở của nhà thơ một thời khoác trên vai màu áo trận trải qua bao
khổ nạn của kiếp tù đày khi “Tháng tư bẻ súng”:
biển gầm núi hú quân tan rã
lịch sử sang sông bão tố tràn
ráng chiều đỏ quạch đời vô hướng
biển dâu cung kiếm bóng chiều sương
về đây ngồi ngóng triền sông cũ
chợt thấm vô cùng thương tích xưa
tháng Tư bẻ súng người tự sát
oan khiên tận khốc nỗi niềm đau.
Tại sao lại là “bẻ súng
và không phải “gãy súng”, vũ khí vẫn còn nguyên vẹn để chiến đấu, người lính
lại tự hủy nó đi vì còn có ích gì khi chiến trận đã tàn và mình là người thua
cuộc, cái đau đớn khi phải tự sát và chuốc lấy những oan khiên của cuộc đời là
niềm ray rức khôn nguôi trong lòng người trong cuộc ngày đó nên chúng ta không
lấy làm ngạc nhiên về hình ảnh người lính gần như chiếm trọn nhiều trang thơ
của tác phẩm nầy.
Đúng như lời mở đầu giới
thiệu tác phẩm của nhà văn Trần Hoài Thư, chủ biên nhà xuất bản Thư Ấn Quán khi
đọc tác phẩm của nhà thơ: “Có Một Mùa
Trăng Xa Như Biển là một nỗi niềm của người lính cũ miền Nam. Nó như có ma mị dẫn
dắt người yêu thơ đi trên con thuyền “thơ” của một người lính một thời cầm
súng, một thời tù đày. Nó như một dòng sông thơ bất tận chảy mãi. Khi thì tình
yêu bao dung bát ngát vô lượng. Khi thì dạt dào tình đồng đội thủy chung. Khi
thì uất nghẹn bật lên trên những giòng rỉ máu, đau xót đến tận tâm can. Khi thì
hào khí ngang tàng của một thời ba lô và nón sắt...”
Nhà thơ Trần Yên
Hòa khi viết về thơ Cái Trọng Ty giải bày tâm sự của mình: “Tôi đã qua đời lính, đã từng đi hành quân, đã là một người
lính trận, đọc bài thơ này mới thấy thấm thía một nỗi buồn của người lính tác
chiến. Thơ Cái Trọng Ty viết về người lính không hô xung phong, không kèn xung
trận, không kêu gọi bắn giết, không khẩu hiệu gì cả. Đó là thân phận của một
con người, giữa cái chết và sống, giữa còn và mất, của xác thân. Nó mang nổi
buồn thê thiết của một kiếp người “sớm triền đông chiều chết đồi tây”.
Riêng
tôi khi đọc bài thơ “Tình em rau đắng” của Cái Trọng Ty, cái cảm giác rờn rợn
giống bước chân mình đang đi qua một vùng đất khổ, làng mạc thôn xóm tiêu điều
chỉ có “hạt gió Lào khô” thiêu chín con người, hình ảnh cô gái mắt nhòe lệ nhìn
theo tê tái làm sao:
quê
em tận đồng sâu heo hút
gió
mùa lép hạt gió Lào khô
sáng
di quân quay quắt em nhìn
sau
tay áo lệ nhòa giấu kín
trong
bụi mù bóng em đang trôi
đời
rong ruổi rừng thâm u muỗi vắt
bãi
nước sình gạn lọc nấu nồi canh...
Cái tình của người lính chiến Cái Trọng Ty trong bài thơ
“tình em rau đất” sao giống quá cái tình của Phù Hư trong bài “Ngậm thẻ qua
sông” quá, chỉ nghĩ đến điều đó thôi tôi cũng cảm thấy đau buốt tận đáy lòng;
thơm
lửa hương khoai tiếng hát rừng
ven
thôn vừa ghé buổi di quân
khói
mẹ sau lều cơm chín tới
nước
em chè lá đậm phèn sông
tôi
đời trận mạc xa quê quán
buổi
ghé nương em núp bóng nhà...
Bước chân của người lính trận trải dài qua những vùng lửa
đạn, nơi đâu trên mảnh đất miền Nam cũng có dấu vết bom cài đạn xới, cái chết
luôn rình rập khắp nơi, nỗi u uất mơ hồ luôn vướng vất cùng suối ngàn ngọn cỏ:
cành
nhãn tháng ba
trổ
cờ hoa tránh muốt
từ
Phú Xuân
bay
suốt suối ngàn
đậu
xuống phận người
nở
oan tình thời chiến
(qua đầm Ô Loan)
Dấu chân người lính trận trong thơ Cái Trọng Ty đã dẫn
chúng ta qua suốt những chặng đường di quân mà anh cùng đồng đội đi qua, các địa
danh với những trận chiến sinh tử: Kon Tum trong “cuộc rượu bốn người”, Tuy
Phong, Mường Mán trong “tháng tư bẻ súng”, Sông Mao, Phan Rí trong “đêm trăng
hoang dại”, Tuy An, Củng Sơn qua “qua đầm Ô Loan”, Bình Định, An Phú trong “biên
cương”, Bình Tuy, Sông Lũy trong “hương thơ”... để thấy chiến tranh khốc liệt đến
nhường nào, nó như chiếc vòi con bạch tuộc vươn dài tỏa ra khằp nơi trên mảnh đất
miền Trung khốn khổ đầy kinh hoàng chết chóc.
Đôi khi trong cuộc hành quân, ở một góc rừng nào đó trên
cao nguyên trong một đêm khuya giá lạnh, người lính bỗng cảm thấy vô cùng cô
đơn, tại sao ta bị cuốn lốc vào cuộc chiến tranh vô nghĩa. men rượu cay nồng có
làm làm vơi đi nỗi buồn chiến tranh hay không:
Uống
đi người bạn vừa quen biết
Đơn
vị nơi đâu quê quán phương nào
Liêu
xiêu ta hát cơn cuồng nộ
Trong
cõi đời bạc phước ngộ tri âm
Ta
với ngươi chôn theo dòng cát lỡ...
(Ban
Mê)
Chiến tranh như một cơn dông bão lớn cuốn phăng những gì
mà nó đi qua: thân phận, tình người, nước mắt, máu xương, giống con độc trùng gậm
nhấm cơ thể con người đến tàn rữa, tấm thân trôi dạt muôn trùng không định hướng
giữa chốn biên cương trùng trùng lam khí:
...gọi
ai nơi tận cùng sơn thủy
ai
làm khách lạ gió muôn phương
ta
về bạn hỏi từ đâu lại
mây
khói tàn tro phủ tượng đài
đêm
rơi giọt lệ sôi trên bếp
dấu
giầy thô người ở trọ quê nhà.
(biên
cương)
Ta thấy đâu đây tái hiện hình ảnh một biên cương đầy chết
chóc, mùi tử khí bốc lên dày như sương trong bài thơ Biên Cương Hành của Phạm
Ngọc Lư khiến ai cũng phải kinh hoàng:
đây
biên cương, ghê thay biên cương!
tử
khí bốc lên dày như sương
đá
chảy mồ hôi rừng ứa máu
rừng
núi ơi ta đến chia buồn.
Cái ký ức đau buồn sau ngày tàn binh lửa ấy, người
cha-người lính trận ấy- ôm xiết đứa con nhỏ vào lòng trước khi vào trại tù vì
anh có linh cảm không bao giờ còn gặp lại, mãi đến hai mươi ba năm sau mới tao
phùng. Đó cũng là hình ảnh rất quen thuộc về người lính miền Nam, những người
trong cuộc không thể nào quên:
ký
ức đau buồn
có
đâu ngờ
buổi
chia ly bỗng thành tai kiếp
mãi
hai mươi ba năm sau
lần
đầu gặp lại con
thành
phố cảng Sydney
dưới
vòm cầu Darling Harbour
(thư về Sedney)
Tiếp theo là cảnh người lính bị tù đày trên chính quê
hương của mình, cảm thấy con đường trỏ lại làm người đúng nghĩa sau gian nan đến
thế:
tuyệt
đường Kỳ lộ lưu đày
kiếp
tù thay vật kéo cày vỡ hoang
dấu
chân mộ huyệt rũ tàn
xó
rừng Xuân Phước gian nan nẻo về
...đêm
về gom đống tang thương
em
nằm ôm mộng vô thường áo quan
trăm
năm dẫu cuộc chiến tàn
dấu
binh lửa đã nhuộm vàng chiến y
(bên dòng Trà Bương)
Trải qua mười năm lưu đày, mười năm tang thương ngẫu lục,
mười năm vật đổi sao dời, có ai thấu được tâm tình của người lính tù miền Nam
hơn anh haykhông?
mười
năm lưu đày trông vời cố xứ
lê
chiếc nạn cùn vượt đường ra bắc
đất
tù đày lũ ma đói thảm thương
núi
đồi hoang vu suối sông dằng dặc
lòng
người đổi thay vực thẳm khôn lường
những
chị những em xem chừng lạnh nhạt
núm
ruột rà quặn thắt đau thương
một
gã cùng đường như tên khất thực...
(khúc tù ca)
Nhưng dù trong hoàn cảnh nào, dù rời khỏi cuộc chiến bẽ
bàng, cam chịu cảnh tù đày chấp nhận số phận bi thương của một bại binh, người
lính không hề khuất phục, dòng thơ ấy
sao ngang tàng đến thế:
...tôi
người lính Miền Nam
phủi
tay rời cuộc chiến
tuổi
trẻ tù đày đứng vững đôi chân
lòng
kiêu hãnh làm người lính thất trận...
(tuyên ngôn gởi người dưới mộ)
Có một bài thơ, cái tựa được Cái Trọng Ty lấy đặt tên cho
tác phẩm: “Có Một Mùa Trăng Xa Như Biển” làm tôi chú ý: cái tựa thật lạ: Biển gần
ta lại rất xa ta, mùa trăng có liên quan gì đến biển, có thật “có một mùa trăng
xa như biển” ở trên đời nầy không? Tôi không biết bài thơ nầy Cái Trọng Ty viết
vào thời điểm nào: lúc anh khoác trên mình màu áo chinh y hay khi tù đày mười
năm, hoặc dõi mắt ngóng về quê nhà từ bên kia bờ đại dương cách biệt nhưng chắc
chắc đó là nỗi lòng của một con người từng trải qua trận cuồng phong bão táp dữ
dội của thời đại, sống sót trở về chợt thấy đời như “hạt bụi cay khóe mắt”, chỉ
thấy nơi nào cũng in đậm “dấu tàn phai”, chỉ thấy “em xa vọng lại một âm ba”
thì thân phận con người là gì trước những “hư hao chiều viễn xứ”, vậy thì ta
cũng đừng phải phân định rạch ròi làm chi chữ nghĩa trong câu “Có một mùa trăng
xa như biển” làm gì:
có
một mùa trăng
xa
như biển
lênh
đênh trôi mãi bến vô cùng
hoang
mang có lạc vừa dậy mộng
em
từ đâu lại
động
chân không
Nói như nhà thơ
Trần Yên Hòa: “Tôi đọc
những bài thơ của Cái Trọng Ty trong một buổi chiều sau 30-4. 30-4.15 gợi tôi
nhớ vế bốn mươi năm trước, những ngày thất vọng nhất của người lính bại trận.
Hôm nay đọc những lời thơ của Cái Trọng Ty, tôi thấy lòng mình thanh thản hơn,
nó như có một phù phép nào đó lôi tôi ra khỏi cơn mộng dữ 40 năm. Thơ Cái Trọng
Ty làm cho tôi tỉnh lại, như người vừa đi qua những chặng đường gai lửa, tôi đã
an nhiên, tự tại và êm đềm theo những câu thơ của anh.”Tôi cũng mong người đọc tập thơ “Có Một Mùa Trăng Xa Như Biển”
có cùng tâm trạng như vậy. Những ký ức đau buồn về chiến tranh một thời đến một
lúc nào đó chúng ta nên quên đi để lòng thanh thản hơn mà sống tiếp.
Tôi xin mượn lời giới thiệu của nhà văn
Trần Hoài Thư làm lời kết cho bài viết của mình:
“...Dù nhà thơ làm thơ cho ông, nhưng
khi đọc “Có một mùa trăng xa như biển”, chúng ta nhận ra là ông làm cho chúng
ta. Chúng ta thấy lại chính hình bóng mình, đồng đội mình, người thân yêu và cả
một miền Nam của mình trong một thời “chập chùng khổ nạn.”(mượn lời Cái
Trọng Ty).
Bên bờ Kênh Tẻ,
tháng 7-2022
LƯƠNG THIẾU VĂN
*Tham khảo:
1- Cái Trọng Ty – với Có Một
Mùa Trăng Xa Như Biển của Trần Yên Hòa
2- Cái Trọng Ty, Người Giữ
Mùi Hương Thơ của Nguyễn Âu Hồng
3- Cõi thơ Cái Trọng Ty của
Tô Thẩm Huy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét