NỖI NIỀM CÙNG TẬP THƠ “MÂY TRẮNG PHÍA NHÀ” CỦA CỐ NHÀ THƠ TRÚC THANH TÂM
Những ngày cuối tháng 12/2020 tôi nhận được
tập thơ “Mây TRẮNG SAU NHÀ” của cố nhà thơ Trúc Thanh Tâm do bạn Nguyễn Đức Phú
Thọ, phân hội trưởng văn học của An Giang gởi tặng. Theo Phú Thọ đây là tập thơ
được Liên Hiệp Các Hội Văn Học Nghệ Thuật An Giang tài trợ kinh phí chọn in từ các
tập bản thảo cá nhân hoặc chưa xuất bản do
chị Thanh Mai vợ nhà thơ Trúc Thanh Tâm lưu giữ.
Nhận được tập thơ tôi rất vui nhưng cũng không
khỏi bùi ngùi. Tôi và nhà thơ Trúc Thanh Tâm quen nhau từ hơn nửa thế kỷ trước khi
anh còn ở Cần Thơ, lúc đó anh cùng Trần Duy Cang hoạt động trong thi văn đoàn Trăng
Nguyên Thủy, còn tôi cùng Thạch Long hoạt động trong nhóm Tình Thơ. Tuy hoạt động
trong hai nhóm thơ văn khác nhau nhưng chúng tôi chơi với nhau khá thân. Có một
thời gian chúng tôi định sát nhập 2 nhóm lại với tên mới là Văn Nghệ Cần Thơ nhưng
không thành vì thời cuộc và điều kiện sinh hoạt khá khác biệt. Một thời gian sau
năm 1975 anh chuyển về Châu Đốc và hoạt động văn nghệ ở đó. Tôi lang thang dạy học
xứ người hơn 5 năm rồi cũng quay về Cần Thơ sinh sống, viết lại sau một thời
gian dài ngừng bút. Xin gởi đến các bạn bài viết của tôi về thơ Trúc Thanh Tâm viết từ 7 năm trước khi anh còn sống.
TRÚC THANH TÂM - TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG
TRONG NHỮNG BÀI THƠ THỜI CHIẾN
*
Nguyễn An Bình
PHẢI GẦN 38 NĂM SAU tôi mới có dịp
gặp lại Trúc Thanh Tâm, mặc dù có thời gian khá dài chúng tôi ở cùng chung một
thành phố, nhà của Trúc Thanh Tâm cũng không xa nhà tôi mấy ( tôi ở đường Lý
Thái Tổ còn anh ở đường Quang Trung, nơi đây có Sân vận động, thường có những
chiếc trực thăng đáp xuống để chuyển thương... ). Sau hòa bình 15 năm, anh về
Châu Đốc định cư hẳn.
Được gặp lại
anh, trong một ngày xuân ấm áp ở quê nhà, bên mấy ly bia và một dĩa khô nhỏ bên
con rạch Cái Khế nhìn ra ngoài sông gió thổi lồng lộng với dãy đèn đêm vàng hực
in hình trên bóng nước lấp loáng mới cảm nhận hết được thời gian trôi qua nhanh
như một giấc
mộng.
Người xưa thường nói “Bóng câu
cửa sổ”, ngày trước đi học được thầy giảng dạy cho hiểu nhưng cũng không thật
để tâm lắm đến ý nghĩa sâu xa của nó, bây giờ mới thật thấm thía “đời có bao
lâu mà hững hờ”. Hai anh em ôn lại thời còn làm văn nghệ trước 1975, hỏi thăm
nhau bạn bè văn nghệ xưa ai còn ai mất mà cảm xúc khôn nguôi.
Gặp lại Trúc Thanh Tâm, có
dịp đọc lại thơ anh trên các trang mạng cảm giác đầu tiên của tôi là anh vẫn
giữ được những tình cảm chân thật, sâu lắng và có thể nói là vẫn thủy chung,
tha thiết với tình yêu quê hương, với những kỷ niệm một thời đi học và những
mối tình đâu đó chợt đi qua trong tâm hồn nhà thơ, có điều nó đã được nâng lên
ở một cấp độ cao hơn, tinh tế hơn và cũng thật hơn. Thơ anh viết gần như tự
nhiên, gần gũi với cuộc sống, những câu thơ viết cho bạn bè, người thân, và cho
những người tình không quen biết đều thấm đượm sự chân tình, giàu cảm xúc hình
ảnh, xen lẩn những lời thơ hóm hỉnh đáng yêu, đời thường không cường điệu,
chính vì thế làm cho người đọc thơ anh cảm thấy thích thú như thấy trong bài
thơ anh đâu đó có mình trong đó. Tôi có đọc một số comment của một số độc giả
trẻ trên blogs Trăng Nguyên Thủy của anh bày tỏ sự ái mộ và có bạn lại hỏi khéo
nhà thơ chừng nào in thơ để được đăng ký là một trong những người ủng hộ đầu
tiên thì cũng đủ thấy thơ Trúc Thanh Tâm đã thật sự có chỗ đứng vững vàng trong
lòng người yêu thơ.
Chẳng hạn như trong bài "Ví Dụ" có những câu
thơ làm người đọc bật cười trước lời tỏ tình như một ví dụ ướm thử để khỏi đau
lòng, bất ngờ khi bị người đẹp từ chối và sự trả lời rất ngây thơ nhưng cũng
rất chân thật dễ thương trước một thực tế khá phũ phàng của cuộc sống:
Cứ là ví dụ, vợ chồng
Đừng nghe thiên hạ dối lòng, bán mua
Nhỏ cười chúm chím, mây mưa
Sống cùng thi sĩ vẽ bùa, ăn thơ.
Một bài thơ khác “Chuyện cổ tích” mà anh ký tặng tôi
khi anh về Cần Thơ mới đây cuối tháng 9 vừa rồi, khi ngồi cùng nhau bên tiệc
rượu nhỏ: anh, tôi, Trần Duy Cang đã cùng ôn lại những kỷ niệm làm văn nghệ
thời đó, cũng có những đoạn thơ đáng yêu như thế:
Trệt đất xuống cho mát trời ông địa
Nước mắt quê hương uống thét phát ghiền
Mấy thằng nam đừng chơi gian lận
Lót long đền, phái nữ họ ghen !
Món dân dã, lai rai tới bến
Đâu ở đâu, lại giống xứ mình
Trước khi chết còn xuống câu vọng cổ
Bạn ta cười, vỗ vế, y kinh !
Và rồi anh cũng nhận ra cuộc đời vốn
dĩ cũng chỉ là phù du, ngắn ngủi thì chúng ta hãy xem như là một “Chuyện cổ
tích”, có lẽ Trúc Thanh Tâm muốn thế và anh cũng mong bạn bè anh nghĩ thế.
Mấy chục năm, biết trên biết dưới
Có chìm xuồng cũng hú hí cho vui
Hương một thuở nghe còn thơm phức
Nhằm nhò gì, chuyện cổ tích, trời ơi !
Nhưng
ở đây tôi muốn nhắc đến thơ anh ở một bình diện khác: Một Trúc Thanh Tâm với
nỗi khắc khoải khôn nguôi về tình yêu quê hương trong những bài thơ thời chiến
trước 1975.
Thời ấy chúng tôi yêu văn nghệ, thích làm thơ viết văn
và tự tìm đến nhau một cách vô tư, trong veo không vướng bận những ganh đua vẩn
tục thường tình. Anh lớn hơn tôi mấy tuổi, khi tôi bước vào giảng đường đại học
thì anh đã là người lính trong thời chiến nhưng không vì thế giữa chúng tôi có
sự ngăn cách. Tôi không nhớ quen anh từ lúc nào nhưng có lẽ từ lúc gặp nhau
trong buổi ra mắt tập thơ Như Lá Me Sầu của Mặc Uyên Thi (tên thật Trương Chí
Tiến, sau nầy là giảng viên Đại Học Cần Thơ) ở một quán cà phê bên đường Mạc Tử
Sanh khoảng năm 69-70 gì đó. Lúc ấy anh cùng với Mặc Uyên Thi lập nhóm Hoa Thời
Gian và hoạt động khá đều trên báo chí, sau đó không lâu anh hợp nhất với Trần
Duy Cang ( còn có bút danh Nguyên Thy Hồng), Trần Hòa Nhã và Hoàng Linh Trung
thành lập Thi văn đoàn Trăng Nguyên Thủy. Đây có lẽ là thời kỳ Trăng Nguyên
Thủy hoạt động sôi nổi nhất, lúc ấy anh có gởi tặng tập thơ của nhóm, qui tụ
thêm được một số bạn thơ sinh viên như Lê Vũ Hùng, Nguyễn Thanh Hùng, Hồ Ngọc
Ẩn, Bùi Thị Sại...Từ Trăng Nguyên Thủy, ít lâu sau Trúc Thanh Tâm và Trần Duy
Cang thành lập Văn nghệ Cần Thơ, tới cuối năm 1974 thì mất dấu.
Rất tiếc sau năm 1975 những tập thơ ấy tôi không
còn giữ được ( có lẽ bạn bè cũng không còn ). Tuy không hoạt động văn nghệ
chung nhóm với anh nhưng chúng tôi vẫn chơi với nhau thật thân tình, gần gũi.
Còn nhớ thời kỳ ấy văn nghệ miền Tây phát triển một cách tự phát nhưng không gì
thế mà không có sự gắn kết với nhau.
Ở Vĩnh Long có Thi văn đoàn Áng
Thơ Đêm của Trần Mộng Hoàng, Mỹ Tho có Văn nghệ Mây Đỉnh Cao của Thanh Uyên
Vũ…, chúng tôi đều có liên hệ, trao đổi. Làm sao quên được những kỷ niệm một
thời làm văn nghệ thuở ấy, lúc Trần Mộng Hoàng ra mắt tạp chí Tham Dự số 1
khoảng năm 70, tôi cùng Trúc Thanh Tâm, Trần Duy Cang, Lê Vũ Hùng ( sau nầy là
thứ trưởng Bộ Giáo Dục-Đào Tạo - đã mất) đã qua dự, chúng tôi có dịp quen thêm
các nhà văn nhà thơ như Việt Chung Tử, Mai Trúc Linh….
Còn nhớ giữa trưa nắng chói chang,
chúng tôi với hai chiếc Honda cà tàng đến Tam Bình thăm Mai Trúc Linh ( lúc bấy
giờ đang là phó quận ). Con đường vào quận vắng vẻ, ruộng đồng xác xơ mà ai
cũng biết là không nên qua lại sau 5,6 giờ chiều vì có thể một viên đạn lạc nào
đó găm vào mình và mãi mãi ta không biết viên đạn đó xuất phát từ đâu, bên nầy
hay bên kia. Chiến tranh thời ấy khốc liệt như vậy. Nói như thế để thấy được
niềm say mê gặp gỡ, giao lưu Văn nghệ của chúng tôi lúc ấy mạnh mẽ như thế nào.
Chúng tôi cũng thường đọc thơ nhau
khi bài được đăng trên báo. Ở Trúc Thanh Tâm tôi nhớ nhất là những bài thơ của
anh đăng trên nhật báo Tin Sáng lúc bấy giờ. Phải nói rõ thêm nhật báo Tin Sáng
thời ấy là một tờ báo đối lập với chính quyền Sài Gòn, do dân biểu Ngô Công Đức
đứng tên, tôi và anh đều có bài cộng tác ở trang Thơ Thời Chiến do dân biểu
Kiều Mộng Thu phụ trách. Thơ anh xuất hiện khá đều đặn. Điều đó cũng dễ hiểu,
bấy giờ anh là nhà thơ mặc áo lính nên không khí, hơi thở chiến tranh, tình yêu
quê hương và những nỗi xót xa trước cuộc chiến được anh tiếp cận, thể hiện khá
rõ nét.
Mặc dù lúc ấy tôi đã vào đại học ,
thường làm thơ tình học trò nhiều hơn là những loại thơ khác, nên thơ chưa cảm
nhận gì nhiều về sự khốc liệt của chiến tranh nhưng tôi lại thích đọc thơ của
những nhà thơ mặc áo lính lúc bấy giờ như Du Tử Lê, Trần Hoài Thư, Luân Hoán,
Trần Dzạ Lữ, Hồ Chí Bửu, Phù Hư, Kim Tuấn… nên sau nầy tôi có dịp so sánh thơ
anh gần gũi với thơ Kim Tuấn hơn cả. Sự khốc liệt, trần trụi, tàn nhẫn đôi khi
tuyệt vọng trước một cuộc chiến mà hai tiếng hòa bình hình như còn quá xa vời
thể hiện rõ nét ở thơ của Hồ Chí Bửu, Trần Dzạ Lữ, Du Tử Lê; nhuốm màu quan tái
như các bài Ngậm thẻ qua sông, Đồn sơn yểm, Quân bộ khúc của Phù Hư; cao ngạo
ngang tàng coi đó như trò đùa của con tạo, rong chơi cùng vũ khí như trong thơ
của Luân Hoán. Ở thơ Kim Tuấn nhất là những bài thơ khi ông còn là lính đồn trú
ở Pleiku, nỗi xót xa về cuộc chiến như một vết sẹo đau buồn không tránh được nó
phảng phất ăn sâu vào tâm hồn nhà thơ:
Tôi đã đi qua bao nhiêu xóm làng
Trong thời chiến tranh mấy lần xuôi ngược
Lửa đỏ đồng hoang người chết bên đường
Máu thẩm bên bờ ruộng đất quê hương
Tháng giá mùa đông không còn áo mặc
...
Tôi đã đi qua bao nhiêu xóm làng
Câu chuyện mười năm buồn như cắt ruột
Lửa ngày xưa cháy quê hương.
(Kim Tuấn - Lửa đỏ mười năm)
Thì
ở trong thơ Trúc Thanh Tâm cuộc chiến cũng đồng nghĩa với chết chóc, với đau
thương, mất mát không có gì có thể bù đắp,thay thế được:
Như Việt Nam nầy ngày tháng đau thương
Như ta một lần rồi cũng bỏ trường
Như thầy của ta bỏ màu áo đạo
Như bạn bè ta chết giữa thê lương !
Nên ta bây giờ ghét kẻ cuồng ngông
Nhìn máu Việt Nam chảy đỏ theo sông
Nhìn từng lớp xương, nhìn từng xác thịt
Nhìn từng mái đầu chít vội khăn tang !
Hăm ba tuổi đời, ta vẫn là ta
Việt Nam vẫn thêm hận tủi chan hòa
Ta thấy cổ truyền Á Đông như mất
Lỡ nhận kiếp người đành nhận xót xa !
(Một
trái tim - 1970)
Hay trong một bài thơ khác, Trúc
Thanh Tâm cho ta thấy một hình ảnh quê hương với những cảnh đời bất hạnh, mà
người ta cố tình phung phí máu xương như một món hàng rẻ mạt:
Buổi sáng qua đường gặp người ăn xin
Việt Nam đau thương, Việt Nam tội tình
Thế kỷ hai mươi, con người tranh sống
Thành phố Sài Gòn mọc nhiều building !
Chiến cuộc kéo dài, người bỏ nhau đi
Đứa trẻ không cha lúc mới chào đời
Nước mắt mẹ rơi, nồi da xáo thịt
Những dòng sông buồn có những thây trôi !
Ta khóc cho người, ta khóc cho ta
Khóc cho Việt Nam hận tủi chan hòa
Em hãy lớn khôn để mà hiểu rõ
Cuộc đời không ngoài hình thức đám ma !
Đói rách vẫn còn triền miên đó em
Hãy nhớ nghe em đừng có sai lầm
Dù cho người đời bon chen đến mấy
Xin nhớ một điều, linh hồn Việt Nam !
Xa xí phẩm nào rẻ như máu xương
Em hãy về đốt một nén hương
Cho người đã chết và đang chết
Giọt máu Việt Nam định nghĩa chiến trường !
(Giọt
máu Việt Nam - 1970)
Để thấy được phút giây đợi chờ
ngày đất nước ngưng tiếng súng, quê hương ruộng đồng thôi máu chảy, xác xơ nó
thiêng liêng mầu nhiệm đến mức nào, nó như òa vỡ ra như ngọn lửa hòa bình bùng
cháy trong tim mỗi người:
Ta cũng một lần nói tiếng thủy chung
Yêu em nghe sao đau khổ tột cùng
Rách nát quê hương, một dòng máu chảy
Ta ở bên nầy, em bên kia sông !
………
Đời còn được gì sau những bình minh
Bao người đấu tranh, nào phải tội tình
Tham vọng điên cuồng mà em thấy đó
Đất nước mình nghèo nhưng giàu những lương tâm !
Em hãy bây giờ gần lại anh hơn
Để thấy trong nhau giọt nước mắt buồn
Để thương người sống không về nữa
Đất trổ hoa màu dù lắm mưa bom !
Ta cũng một lần nói tiếng yêu em
Ta cũng một lần nghe những khát thèm
Ta cũng một lần nghe người tự thú
Ngọn lửa hòa bình cháy mãi trong tim !
( Phút đợi chờ - 1970 )
Anh mơ ước được tay nắm lấy bàn tay,
hình dung một đất nước hòa bình như thế nào và tình yêu như ngọn lửa hồng được
nhóm lên trong đêm đông giá rét làm ấm lòng đôi trai gái bền bĩ chờ nhau qua
những năm tháng chiến tranh,thật đẹp biết bao:
Hành trang anh còn nặng tình xứ sở
Những tủi hờn, những kỷ niệm chưa vơi
Nên tình em, anh vẫn chưa ngỏ ý
Sợ mai kia, em lỡ mất cuộc đời !
Em có nghe trong nỗi sầu con gái
Trời mùa đông, ai nhóm bếp lửa hồng
Đất mẹ ơi, còn hai miền Nam, Bắc
Một chiếc cầu thương nhớ một bến sông !
Anh còn gì, những tháng ngày cơm áo
Em được gì, những kiến thức bán mua
Trong can qua, người giành nhau sự sống
Thương nhau hơn giữa xã hội lọc lừa !
Anh hình dung một hòa bình mai mốt
Khi chiến tranh thật sự đã an bày
Anh trở về với tình anh buổi trước
Em thẹn thùng, tay nắm lấy bàn tay !
(Tay
Nắm Bàn Tay - 1971)
Tôi biết ở nước ngoài có một
nhà văn, nhà thơ nổi tiếng lúc còn ở Việt Nam tập hợp những bài thơ tình miền
Nam thời chiến in thành tuyển tập, trong nước không biết có nhà nghiên cứu,
biên khảo văn học nào chú ý đến mảng đề tài nầy không, nếu có một ngày đẹp trời
nào đó tuyển thơ “THƠ MIỀN NAM THỜI CHIẾN” ra mắt thì Trúc Thanh Tâm xứng đáng
có mặt trong tác phẩm đó và tôi hy vọng ngày đó không còn xa nữa.
Bên bờ sông Hậu, tháng 11/2013
NGUYỄN AN BÌNH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét