BÀI VIẾT " PHẠM THIÊN THƯ - NGƯỜI HÀNH GIẢ SUỐT ĐỜI LANG THANG ĐI TÌM ĐỘNG HOA VÀNG"
TRÊN TẠP CHÍ NGÔN NGỮ SỐ 11 THÁNG 1-2/2021 XUÂN TÂN SỬU XUẤT BẢN TẠI HOA KỲ
PHẠM THIÊN THƯ- NGƯỜI HÀNH GIẢ
SUỐT ĐỜI LANG THANG ĐI TÌM ĐỘNG HOA VÀNG
* NGUYỄN AN BÌNH
Khi tôi chuyển về Sài Gòn sinh sống, đó là một cơ hội để
tôi được giao du, tiếp xúc gặp gỡ những văn nghệ sĩ thành danh mà mình nghe tiếng
hoặc ái mộ, họ có những tác phẩm được nhiều người biết đến trước và sau năm
1975 và nhà thơ Phạm Thiên Thư là một trong những người tôi có cái duyên hội ngộ
như thế. Tôi gặp nhà thơ lần đầu sau khi ông đã trải qua cơn đột quỵ thứ hai,
tuy đã thoát qua cửa ải tử sinh nhưng thần thái không còn mẫn tiệp như trước,
tuy nhiên ông vẫn nhớ được nhiều người nhiều việc, vẫn còn sáng tác trong chừng
điều kiện sức khỏe cho phép. Ngồi với ông trong các buổi ra mắt của tập san Quán
Văn ở quán cà phê Lọ Lem, hay trong chùa Linh Bửu ở Quận 8 hoặc có dịp cùng các
bạn văn đến thăm ông ở quán cà phê Hoa Vàng. Nói đến quán cà phê Hoa Vàng các
bạn yêu nhà thơ Phạm Thiên Thư thì ai cũng biết, nó
nằm trên đường Hồng Lĩnh, một con đường
nhỏ khá vắng trong khu cư xá Bắc Hải thuộc quận 10 Tp Hồ Chí Minh, lúc đó trông nhà thơ giống như tiên ông đang phiêu diêu giữa
chốn trần gian còn nhiều tục lụy, trong bộ quần áo đời thường ông ngồi im lặng
như một thiền sư chiêm nghiệm, một triết gia thâm trầm trong làn khói tỏa từ tẩu
thuốc ông hút như một vật bất ly thân, mắt mơ màng nhìn cõi đời một cách ung
dung tự tại làm tôi liên tưởng đến một hành giả đã rũ bỏ lòng trần đang trở về
non để tìm Động Hoa Vàng ngủ một giấc thật say.
Căn nhà ở đường Hồng Lĩnh
nơi ông ở tầng dưới là quán cà phê lấy tên Hoa Vàng nơi người vợ sau của ông
kinh doanh để mưu sinh, phía bên kia đường đặt một vài cái bàn, một ít cái ghế
để cho khách thập phương thích không khí đường phố ngồi uống cà phê chuyện trò
và nơi đây cũng là chỗ ngồi thường xuyên của ông với tẩu thuốc luôn thả khói.
Có một giai thoại thú vị về thời kỳ quán cà phê Hoa Vàng mới mở: Vì chưa có
nhiều khách nên ông vừa là tiếp viên vừa kiêm luôn việc giữ xe cho khách. Nhiều cô cậu tuổi teen thích những ca khúc phổ từ thơ
Phạm Thiên Thư tìm đến Hoa Vàng để được
xem “chàng hoàng tử” của “nàng Hoàng Thị Ngọ” ra sao, gửi xe xong hỏi ông lão giữ xe: “Nhà thơ Phạm Thiên
Thư có ở đây không ạ?”. Lão giữ xe cục mịch cười “khoe” hàm răng vẩu: “Ông ấy
đi vắng rồi”.
Trước mặt chỗ ông ngồi có đặt một tảng đá lớn
và thường xuyên có cắm vài đóa cúc vàng còn tươi. Bạn bè đến thăm ông để ý ở
mỗi địa điểm cư ngụ mà ông đi qua đều có sự hiện diện của hoa vàng, có lẽ trong
cuộc đời thi sĩ hoa vàng là một biểu tượng gắn liền với những ký ức, cuộc tình
không quên nào đó chăng? Có lần ông kể với bạn bè : “Năm 1942, khi cả gia đình còn ở xã Chi Ngãi, huyện Chí Linh (Hải
Dương), bố tôi mua hẳn ngọn đồi Phượng Hoàng. Hoa cúc dại vàng mọc mênh mông, bát ngát chạy dài che
khuất đường chân trời”. Chính hình ảnh hoa vàng ấy đã theo ông suốt cả từ thời niên thiếu
đó cho đến khi vào Nam, hoa vàng luôn có mặt những nơi ông ở và nó xuất hiện dày đặc trong thơ Phạm
Thiên Thư. Nó trở thành một biểu tượng xuyên suốt, một nỗi hoài niệm
khôn nguôi trong lòng nhà thơ.
Trở lại với bài thơ Động Hoa Vàng,
ta cũng nên tìm hiểu một chút về sự ra đời của nó: Trước năm 1975 ở miền Nam sống trong bầu không khí chiến tranh đầy bất an,
lòng người chán chường luôn tìm cách thoát khỏi cái không khí ngột ngạt chết người,
đúng trong thời điểm đó xuất hiện những nhạc phẩm thật trong sáng lãng mạn nói
về tình yêu học trò, thanh niên học sinh thời ấy ai mà không si mê các ca khúc
mà nhạc sĩ Phạm Duy đã phổ thơ Phạm Thiên Thư, nó như một làn gió mới nổi đình
nổi đám tràn qua các đô thị miền Nam thời bấy giờ.
Sự kết hợp thơ nhạc giữa Phạm Duy và Phạm Thiên Thư hình
như có mối duyên kỳ ngộ thì phải: Bản thân nhạc sĩ khi đọc thơ của Phạm Thiên
Thư đã nhận ra rằng những bài thơ về đạo của nhà thơ lại rất gần với đời nên
trong lúc hứng khởi ông đã phổ một loạt 10 bài đạo ca vào năm 1971 và từ duyên
nghiệp đó lại chính là chiếc cầu nối để Phạm Duy phổ những bài thơ tình của Phạm
Thiên Thư, tính ra khoảng 15 bài tình ca ra đời sau đó như: Ngày xưa Hoàng Thị,
Đưa em tìm động hoa vàng, Em lễ chùa nầy, Gọi em là đóa hoa sầu. Loài chim bỏ xứ...
Sau nầy trong hồi ký của Phạm Duy, người nhạc sĩ cũng cho
ta thấy rõ điều đó: Khoăng năm 1970, nhạc Phạm Duy đã trải qua một chặng đường
dài phổ biến trong các đô thị miền Nam, ông sáng tác rất nhiều thể loại từ dân
ca, tình ca, vỉa hè ca, hoan ca, tục ca, tâm phẫn ca...sáng tác của Phạm Duy
đang đi vào bế tắc. Ngay thời điểm đó, với sự giới thiệu của nhà văn Nguyễn Đức
Quỳnh, ông bắt gặp những vần thơ thanh thoát, nhẹ nhàng, vừa mênh mang lại thâm
trầm, nửa đạo nửa đời, chứa đựng thiền ý sâu xa của người tu sĩ làm thơ Thích
Tuệ Không(pháp danh của Phạm Thiên Thư lúc bấy giờ). Phạm Duy đã tìm ra lối
thoát cho việc sáng tác nhạc của mình và những bài Đạo ca được ra đời từ ấy.
Cũng trong mối duyên thơ nhạc đó, những bài tình ca dựa vào thơ của Phạm Thiên
Thư cũng lần lượt ra đời tạo nên một làn sóng hâm mộ trong lòng người yêu nhạc.
Ca khúc “Đưa em tìm động hoa vàng” là một ca khúc nổi tiếng
đi vào lòng người yêu nhạc từ những năm đầu thập niên 1970 cho mãi đến bây giờ
được Phạm Duy chọn lọc, lấy ra những câu thơ ấn tượng nhất trong bài thơ Động hoa
vàng của Phạm Thiên Thư để viết ra. Phạm Duy đã từng viết về điểu nầy: “Phạm Thiên
Thư đưa cho tôi tập thơ Ðưa em tìm động hoa vàng hay bài thơ Gọi em là đóa hoa
sầu... để tôi phổ thành những bài hát thanh cao nhất của thời đại. Ðối với tôi
lúc đó, hình ảnh thiền, chùa, động hoa vàng thật là mát mẻ và rất cần thiết.
Bài Ðưa em tìm động hoa vàng được rút ra từ mấy trăm câu thơ của thi sĩ, và ta
chỉ cần có ba đoạn ca là nói lên hết được cái cảnh ngày xưa, có kẻ từ quan, lên
non tìm động hoa vàng... Ðể làm gì? Không phải chỉ để nhớ nhau mà chính ra là
để ẩn náu vậy”. (Trích Vang Vọng Một Thời – Mùa
hè, 2012)
Động Hoa Vàng là một tập
trường thi gồm 100 khúc thơ lục bát(mỗi
khúc 4 câu) thể hiện tâm thức của một hành giả giác ngộ trước cuộc sống nhân
sinh đầy bất trắc muộn phiềnmuốn thoát ly sinh tử tìm về cội nguồn vĩnh cửu của
cái đẹp thiên tiên không vướng bụi trần và những tục tụy buông bỏ lại sau lưng.
Thoát khỏi vòng luân hồi chìm đắm trong cõi nhân sinh phiền muộn là ý muốn của
nhiều người khi đời đã trải qua nhiều thăng trầm của cuộc sống. Ta biết tác phẩm Động hoa vàng được Tuệ Không, tức
Phạm Thiên Thư viết ra trong một hoàn cảnh đất nước chiến tranh, giữa một xã
hội và thời sự đảo điên, lối sống thực dụng băng hoại nên lời thơ muốn thoát đi
những dung tục đó tìm về một thế
giới yên bình, hạnh phúc đơn sơ gắn bó với thiên nhiên như sông suối, đồi cỏ, mây hồng, triết
lý của đạo phật phảng phất trong từng câu thơ, hình ảnh. Những ai yêu thích, say đắm bài
thơ Động Hoa Vàng chắc sẽ bất ngờ khi biết nhiều hình ảnh, ý tứ của bài thơ
được nhà thơ lấy cảm hứng từ căn gác gỗ ở khu cù lao Phan Xích Long. Hay nói một cách nào đó, khu cù lao
Phan Xích Long chính là “động hoa vàng” thu nhỏ của Phạm Thiên Thư
thời kỳ đó. Cũng
chính nơi đây, ông
đã trải qua những năm tháng sáng tác rực rỡ nhất trong cuộc đời mình. Nơi đây
còn là nơi cư ngụ
của nhiều văn nghệ sĩ như Trụ Vũ, Thụy Long, cũng là nơi lui tới bàn chuyện con
chữ thế sự của Phạm Duy, Sơn Nam... Năm 1968, gia đình nhà thơ mua 400m2 đất ở khu cù lao. Rồi ông sáng tác thi
phẩm Động hoa vàng với 100 đoạn thơ
trong giai đoạn nầy. Mỗi
đoản khúc được ví một tiếng hót của loài dị điểu, sẵn sàng yêu và chết, và để tiếng hót của
mình rơi rụng trên giang hà.
Nói về Phạm Thiên Thư có người nhận xét: “người
hiền sĩ ngồi bên lề cuộc sống ta bà, lặng yên thi hóa kinh phật”.
Đọc thơ ông, ta tìm thấy những điều phong phú và mới lạ về tôn giáo, tình yêu
và thiên nhiên. Giữa một thời đạn lửa, ông bình thản lập cho mình một cõi thi
ca riêng: trong trẻo, trữ tình và đậm chất Thiền…
Trước
hết Động hoa vàng theo tôi là một
bài thơ ...tình chứa đậm rất nhiều thiền ý và gã từ quan trong bài cũng là người
hành giả đang lang thang suốt đời luôn đi tìm một tình yêu trong sương khói mịt
mù:
Ta về rũ áo mây trôi
Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ lan
Rằng xưa có gã từ quan
Lên non tìm động hoa vàng ngủ say
Cái
tình ấy bắt đầu từ việc “ Rằng xưa có gã từ
quan. Lên non tìm động hoa vàng ngủ say”, người ta những tưởng cái gã từ quan ấy
chán ngán mệt mỏi lắm rồi sự gò bó của chốn quan trường đầy xu nịnh, buông bỏ tất
cả lên non tìm sự nhàn nhã thanh thản trong phần đời còn lại của mình nhưng
không phải thế, nó lại mở ra một cõi tình mênh mông, nỗi khao khát kiếm tìm tỉnh
yêu trong một không gian đầy sương khói mờ ảo và mộng mị. Cái tình trong
tác phẩm bàng bạc khắp nơi nhưng đó không phải là cái tình dung tục mà là một bản
tình ca đôi lứa, có sự hòa quyện giữa đạo và đời đậm
hương vị thiền. Giữa đạo và đời, giữa tình yêu và thiền học những tưởng không
thể dung hòa với nhau được thế mà cái nhân vật trữ tình ấy, cái gã từ quan ấy mà
tôi gọi đó là một hành giả lại vương vấn ở giữa hai dòng nước đời và đạo, giữa
tình yêu trần tục và phật pháp trong bản ngã của mình.
Chẳng
vậy mà trong suốt 100 khổ thơ lục bát 4 câu được dành nói về nàng, về nét đẹp của người thiếu nữ trong thơ được Phạm Thiên Thư diễn
tả trong nhiều mối quan hệ biến
hóa thiên hình vạn trạng, khi thì mờ mờ ảo ảo như sương khói khi thì lồ lộ rất
trần thế nhưng không dung tục, ngay từ đầu ta đã thấy:
Mười con nhạn trắng về tha
Như Lai thường trụ trên tà áo
xuân
Vai nghiêng nghiêng suối tơ huyền
Đôi gò đào nở trên miền tuyết thơm
Nhà thơ như muốn gởi một thông điệp đến
người đọc một cảm thức một tình yêu thi vị đầy thiên tiên, người tình được
nhìn,cảm nhận bằng một ngôn ngữ trong veo đầy thiền vị:
Em nằm ngó cội thu xanh
Môi ươm đào lý một nhành đôi mươi
Về em vàng phố mây trời
Tay đơm nụ hạ hoa dời gót xuân
Nỗi buồn, nỗi đoạn trường lại được nhắc đến rất nhẹ nhàng:
Thì thôi tóc ấy phù vân
Thì thôi lệ ấy còn ngần dáng
sương
Thì thôi mù phố xe đường
Thì thôi thôi nhé đoạn trường thế
thôi”
Đôi khi những kỷ niệm
của tình yêu chợt ùa về trong tâm tưởng tạo nên sự hoài niệm khôn nguôi về những ngày xưa
cũ nhưng thật tinh khôi:
Nhớ xưa em chửa theo chồng
Mùa xuân em mặc áo hồng đào rơi
Mùa thu áo biếc da trời
Sang đông em lại đổi dời áo hoa
Trong một đoạn thơ khác, Phạm
Thiên Thư đã dùng hình tượng con chim để nói lên điều đó:
Con chim mùa nọ chưa chồng
Cũng bay rời rã trong
dòng xuân thu
Từ em giặt áo đông tơ
Nay nghe lòng suối
hững hờ còn ngâm
Và trong
Động Hoa Vàng ta còn bắt gặp những hình ảnh gần gủi quen thuộc trong điển tích hay trong cổ thi được nhà thơ vận dụng một cách khéo léo nhuần nhuyễn để hiện
chủ đích của mình:
Ta về rũ áo mây trôi
Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ
lan
Rằng xưa có gã từ quan
Lên non tìm động hoa vàng ngủ say
Đoạn thơ làm
ta nhớ đến Từ Thức gặp tiên trong Truyền Kỳ Mạn Lục của
Nguyễn Dữ, chán ngán trước những ràng buộc, gò bó của chốn quan trường mà treo ấn
từ quan đi chu du thiên hạ còn ở Phạm Thiên Thư ông có làm quan đâu mà từ, như vậy nó chỉ là một cái
cớ, một tiền đề thể hiện quan niệm sống của một tu sĩ có pháp danh Tuệ Không
xem đời chỉ là cõi phù vân nên “rũ áo mây trôi” và bắt đầu cái ý tưởng phiêu bồng
bằng việc “Lên non tìm động hoa vàng ngủ say” vậy.
Hình ảnh Từ Thức tìm về thiên thai phải
chăng được thể hiện qua đoạn thơ đầy biểu tượng nầy:
Chênh vênh đầu trượng thiền sư
Cửa non khép ải sương mù bóng ai
Non xanh ướm hỏi trang đài
Trăm năm còn lại dấu hài động hoa
Ta còn bắt gặp một
chút sự giống nhau về tâm thức của nhà thơ trong một đoạn khác:
Đợi nhau tàn cuộc hoa nầy
Đành như cánh bướm đồi Tây hững hờ
Làm ta nghĩ đến Trương Quân Thụy
và Thôi Oanh Oanh gặp nhau lần đầu ở chùa Phổ Cưu, ở đồi Tây trong Tây Sương Ký
của Vương Thực Phủ. Một số câu thơ khác cũng vậy:
Tưởng xưa có kẻ
trên lầu
Ngày xuân gieo nhẹ trái cầu gấm
hoa
Đường về hái nụ mù sa
Đưa theo dài một nương cà tím
thôi
Thôi thì em chẳng yêu tôi
Leo lên cành bưởi nhớ người rưng
rưng
Ta còn bắt gặp trên bước lang thang tìm Động hoa vàng cho riêng mình, người
hành giả ấy đã tự tạo cho mình một cuộc sống hòa vào thiên nhiên để từ đó thấy
được niềm vui bất chợt và tâm hồn như được gột sạch bao nỗi buồn phiền:
Lên non cuốc sỏi trồng hoa
Xuôi thuyền lá trúc la đà câu
sương
Vớt con cá nhỏ lòng đòng
Mải vui lại thả xuống dòng suối
tơ
Một đêm nằm ngủ trong mây
Nhớ đâu tiền
kiếp có cây hương trời
Cây bưởi trắng ngát hương đời
Nụ là tay phật chỉ người qua song
Chính vì thế chất thiền trong Động hoa vàng
được nhà thơ thể hiện thông qua nhiều hình tượng, hình ảnh ẩn dụ, phóng dụ như:
thông xanh, suối biếc, miền tuyết thơm, suối hoa rừng, thềm trăng, đồi Dạ Lan,
miền cỏ hoa, bến hoa tươi...Tất cả những hình ảnh ấy rất đơn sơ, bình dị nhưng
thật trong sáng thoát tục. Chúng ta thử điểm qua vài đoạn thơ như thế:
Ta về rũ áo mây trôi
Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ
lan
Mùi
hương hoa trong ấm trà mùa đông:
Đất nam có lão trồng hoa
Mùa hoàng cúc nở ướp trà uống
đông
Có thể là cánh hoa dại ven đường mùa đông:
Bông hoa trắng rụng bên đường
Cánh thơm thông điệp vô thường
tuyết băng
Hay ánh trăng in dấu hài hoa:
Người về sao nở trên tay
Với hài đẫm nguyệt thêm dài gót
hoa
Hoặc bóng trăng thanh
bình nơi thôn dã:
Bóng trăng tịch mặc hiên nhà
Thành đàn nảy hạt tỳ bà quyện hương
Bóng hạc nhuốm màu huyền thoại như trong bài thơ Hoàng Hạc Lâu:
Hạc xưa về khép cánh tà
Tiếng rơi thành hạt mưa sa tần
ngần
Mùa xuân trong Động hoa vàng được
nhắc đến rất nhiều lần tràn đầy tiếng chim, hương hoa cây cỏ bốn mùa xanh mát,
ánh trăng huyền diệu soi mái thề và ngay cả sự hoài niệm cũng mang hơi thở ấm
áp nồng nàn của mùa xuân:
Mười con nhạn trắng về tha
Như lai thượng trụ trên tà áo
xuân
Mùa xuân bỏ vào suối chơi
Nghe chim hát núi gọi trời xuống
hoa
Có con cá mại bờ xanh
Bơi lên nguồn cội tắm nhành suối
xuân
Giữa dòng cá gặp phù vân
Hỏi sao mây bỏ non thần xuống
chơi
Con khuyên nó hót trên bờ
Em thay áo tím thờ ơ giang đầu
Nhớ xưa có kẻ lên lầu
Ngày xuân gieo nhẹ trái cầu gấm
hoa
Rượu
cũng thể thiếu với gã hành giả lang thang
trên đồi cao cỏ biếc, đó cũng là lẽ thường tình được nhắc đến
để nhà thơ thỏa mãn cảm hứng
đề thơ hay ngâm vịnh, mượn rượu để gởi gấm tình yêu của mình:
Đưa nhau đổ chén rượu hồng
Mai sau em có theo chồng đất xa
Qua đò gõ nhịp chèo ca
Nước xuôi làm rượu quan hà chuốc
say
Đưa nhau đấu rượu hoa này
Mai đi dã hạc thành ngoài cuồng
ngâm
Cửa sương nhẹ mở âm vào
Lay nghiêng bầu nậm rượu đào trầm
ca
Lại đem bầu ngọc ra trồng
Bầu khô cất nậm rượu hồng uống
xuân
Động nam hoa có thiền sư
Đổi kinh lấy rượu tâm hư uống
tràn
Nghiêng ly mình cạn bóng mình
Tay ôm vò nguyệt một bình mây bay
Đọc Động Hoa Vàng ta cảm nhận nó như một dòng suối chảy
miên man trên một triền núi xa xăm đem nước nguồn tinh khiết vun bồi cho đất
đai thêm màu mỡ, như một đám mây trôi bàng bạc khắp trời nhiều màu sắc tấu
thành một khúc nhạc mong tìm thấy tri âm tri kỷ như Bá Nha Tử Kỳ nhưng thử hỏi
trên đời nầy có được mấy người đạt được sở nguyện như
thế nên người hành giả ấy vẫn mãi lang thang đi tìm Động hoa vàng khắp đầu non
cuối bể giống như Từ Thức giầy rơm nón cỏ chống thiền trượng tìm về thiên thai
nhưng lối xưa đã che lấp dấu giầy của tiên
nương mất rồi.
Chênh vênh đầu trượng thiền sư
Cửa non khép ải sương mù bóng ai
Non xanh ướm hỏi trang đài
Trăm năm còn lại dấu hài động hoa
Phải chăng đến một lúc nào đó ta cũng nên đi tìm một ĐỘNG HOA VÀNG cho
riêng mình các bạn nhỉ?
NGUYỄN AN BÌNH
_______________________________________________________
Tham khảo:
-
Tìm “Động hoa vàng” của Đặng Tiến trên tập san Quán Văn số 32
-
Ý nghĩa của bài thơ Động hoa vàng của Nguyễn Mộng Khôi
-
“Động hoa vàng” của Phạm Thiên Thư trên báo Tuổi Trẻ online ngày 5/12/2016
-
Bài thơ Động hoa vàng của Phạm Thiên Thư nhìn từ Văn Hóa Thiền của Hồ Tấn
Nguyên Minh.
-
Đến Động hoa vàng gặp “Gã từ quan” của Lê Bá Lư
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét