TRẦN DZẠ LỮ
Hồi ức
DỌC ĐƯỜNG VĂN NGHỆ ( Phần 80)
NGUYỄN AN BÌNH,NGƯỜI MIỆT MÀI TRẢ NỢ VĂN
CHƯƠNG
Nguyễn An Bình tên thật Lương Mành sinh năm
1954 tại đất Tây Đô-nơi sản sinh nhiều văn nghệ sĩ nổi danh.Bình học hết tiểu
học, trung học rồi đại học.Anh học Đại Học Sư Phạm ban Việt Hán tại quê nhà..Ra
trường là một thầy giáo dạy ngữ văn ở Cần Thơ.Trước năm 1975, anh đã làm thơ,
viết truyện khá nhiều đăng trên các báo, tạp chí ở Sài Gòn và có quan hệ tốt
với nhiều nhà văn, nhà thơ đất Tây Đô cũng như Sài Gòn-nơi hội ngộ, giao lưu
văn chương cực tốt.Anh không chỉ dạy học cần mẫn mà trước tác rất miệt mài
trong âm thầm, lặng lẽ nhưng là ngọn sóng ngầm…Năm 2016 anh về hưu và chuyển về
quận 7-TP Hồ Chí Minh.Không gian và thời gian này, Nguyễn An Bình khác chi con
kình ngư ngoài biển lớn thoả thích vẫy vùng…Không chỉ cộng tác với nhiều báo
chí lớn nhỏ trong nước, ngoài nước mà anh còn viết và in tác phẩm nhiều
đến…chóng mặt!.Qua học ,đọc trải nghiệm nhiều với vốn tri thức phong phú,
Nguyễn An Bình đã có một gia tài tinh thần đồ sộ hiếm thấy.Sự bền bỉ trước tác
này khiến tôi nghĩ đến một Balzac,một Victor Hugo,một LevTolstoy,một Poe,một
Whitman,một Goethe…viết lách không còn biết đến thời gian là gì.Trong nước, thì
tôi nhớ nhà văn Vũ Trọng Phụng ngày xưa,viết như điên để trả nợ áo cơm, trả nợ
đời đến ho lao mà chết.Giờ đây Nguyễn An Bình viết bởi đam mê và để trả nợ văn
chương trong tư thế của một người thật khoẻ mạnh, thật sung sức.Điều này chúng
ta rất nên mừng.`
Biết nhau đã lâu nhưng mới quen Nguyễn An Bình
từ năm 2016 khi giao lưu văn nghệ ở Quán Văn.Tôi quý Bình ở chỗ chí tình và
thẳng thắn.Không chỉ chí tình với tôi mà tất cả ACE Bình quen biết.Và cũng biết
Bình hướng Thiện và tránh xa điều Ác, cả ngoài đời cũng như trong văn
chương.Tôi chưa thấy thơ ai được phổ nhạc cả ngàn bài thơ bởi nhạc sĩ Mộc
Thiêng( 300 bài ) và các nhạc sĩ khác ( 700 bài)..Tôi nghĩ thời gian và công
chúng có ơ hờ ra sao thì chi ít cũng còn có một số bài của anh và các nhạc sĩ
được lưu danh sau này.
Tôi giới thiệu về NAB ngắn gọn thế
thôi.Thơ văn của Nguyễn An Bình sẽ là câu trả lời chính xác nhất khi bạn bước
vào cõi riêng của tác giả.
ChùmThơ NGUYỄN AN BÌNH
DẤU CHÂN QUA CẦU HIỀN LƯƠNG
Đọc bài thơ “ Đưa dâu qua cầu Bến Hải”*
Lòng thấy vui sao thoáng chút bùi ngùi
Dòng sông của một thời đất nước chia đôi
Cầu Hiền Lương thành chứng nhân thương nhớ.
Trai Vĩnh Linh cưới gái làng Cùa Cam Lộ*
Chuyện không ngờ chỉ tưởng ở trong mơ
Những cuộc đấu loa, sơn nhịp, chọi cờ
Sông vẫn mát sao đắng lòng đến thế.
Tôi lặng đi khi bàn chân mình bước nhẹ
Lên những tấm ván cầu một thời tấm còn tấm mất
Tìm vạch sơn trắng của những năm chia
cắt
Đánh dấu 450 miếng bên nầy, 444 miếng phia bên
kia.**
Vin những nhịp cầu từng thấm máu phân chia
Mong tìm thấy từng dấu bom cày đạn xới
Trong gió nghe như có tiếng gọi đò ai đó
Đò ơi xin chèo nhẹ…dưới sông còn có bạn tôi
nằm.***
Tiếng gọi đò nghe thao thức trở trăn
Trong đợt sóng ầm ào của miền đất dữ
Để nhớ người bên đây cầu ngóng sang bờ Bắc
Kẻ bên kia cầu lại ngó đợi bờ Nam.
Nỗi đau thương từng se thắt đến oặn lòng
Dòng sông bạc cũng đành chia hai màu thương
nhớ****
Một dòng sông nước xuôi về biển cả
Sao lại gọi bằng hai cái tên Cửa Việt,
Cửa Tùng?
Nghe ai hát “Câu hò bên cầu Hiền Lương*****
Làm thao thức niềm riêng người lính gác đèn
biển
Tình có khác gì nhau dù không cùng màu cờ
chiến tuyến
Mưa bên nầy cũng làm ướt áo kẻ bên sông.
Đừng quên nhau cùng uống nước chung dòng
Để ngấm nỗi đau của một thời máu lửa
Hôn nấm đất bên bờ sông lịch sử
Vết thương nào thành sẹo chẳng liền da?
17/10/2015
*Bài thơ “Rước dâu qua cầu Bến Hải” của nhà
thơ Cảnh Trà viết sau ngày thống nhất đất nước 30/4/75 không lâu.
**Từ ý “Giữa 450 tấm phía bên nầy.Và trong 444
tấm phía bên kia” trong bài thơ Những tấm ván trên cầu Hiền Lương của nhà thơ
Ngô Liêm Khoan.
***ý thơ “Lời người bên sông” của nhà báo Phan
Bá Đương
**** Lấy từ ý lời hát “Sao ta lìa cách bởi
dòng sông bạc hai màu” trong bài hát “Chuyến đò vĩ tuyến” của nhạc sĩ Lam
Phương.
***** Tên một bài hát của nhạc sĩ Hoàng Hiệp
phổ từ thơ của Đằng Giao
TIẾNG NGUYỆT CẦM TRÊN SÓNG
Bến sông lạnh vi vu ngàn lau trắng
Người lên yên không hẹn buổi tương phùng
Thương tráng sĩ gởi hồn qua sông Dịch
Búp sen non vương vấn kẻ sang Tần.
Áo khinh cừu mịt mù nơi đất trích
Tiếng ngựa Hồ hí vọng mãi mù tăm
Đàn chim Việt thiên di qua biển rộng
Vẫn mơ ngày về lại đậu cành Nam.
Kẻ mài kiếm dưới trăng vàng thuở ấy
Đêm chưa tàn tóc điểm trắng màu sương
Đôi giầy cỏ đâu đường về Từ Thức
Sóng Thần Phù mơ hình bóng Giáng Hương.
Ta nào phải người Tiêu Sơn thuở ấy
Sao tình sầu còn đọng mắt Quỳnh Như
Đường sạn đạo lửa tràn bao kinh sử
Cung A Phòng nghi ngút khói phần thư.
Mơ tiếng trống Quang Trung mùa xuân trước
Gò Đống Đa còn vẳng tiếng ngựa phi
Đất kinh kỳ áo bào vương khói trận
Hoa đào bay trên ngọn gió truyền kỳ.
Móng rùa vàng lẽ nào rơi tay giặc
Nước biển Đông có rửa sạch phù hoa
Đêm nghe tiếng nguyệt cầm rơi trên sóng
Ngỡ ai còn hát khúc Hậu đình hoa.*
*Hậu Đình Hoa: Khúc hát cung đình dưới
triều Trần Hậu Chủ bên Trung Quốc(583-587), suốt ngày chỉ đắm say tửu sắc đến
nổi nước mất, nên Hậu Đình Hoa còn gọi là khúc ca vong quốc.
CHÉN RƯỢU TRẦN GIAN
Tạ lòng chén rượu trần gian
Say cho đắm hết mối chân tình hồng
Buồn làm chi – sáo qua sông
Bao giông tố nén trong lòng chưa tan.
Tạ tình thiên địa mang mang
Chim về ngủ dưới địa đàng vì ai
Trôi nghiêng mộng dữ đêm dài
Đồi hoa vàng nụ trăng cài lang thang.
Tạ người mấy thuở đa đoan
Chuyện trăm năm cũ đã tràn chén xưa
Sớm nắng quái – lại chiều mưa
Nâng ly rượu cuối cũng thừa đấy thôi.
Tạ em một chút tình rời
Môi hồng con gái qua thời bể dâu
Tóc dầy mượt rụng từ lâu
Chải bao nhiêu lược - gương sầu bấy nhiêu.
Tạ đời chiếc bóng liêu xiêu
Bao dung chợt ngã khói chiều hoàng hôn
Cạn đi chén rượu dỗi hờn
Trần gian nấn níu bàng hoàng cuộc chơi.
2/1/2021
NGÀY TÌNH NHÂN LẠI NHỚ MÙA HOA ĐÀO
Em ơi! Ngày tình nhân
Hoa đào xưa vẫn nở
Hiên nhà vàng nắng xuân
Mang theo lời của gió.
Con đường nhuộm sắc hồng
Phố chìm trong sương trắng
Lãng đãng trên đồi thông
Dấu chân người phiêu lãng.
Hoa đào bừng sắc thắm
Khát vọng tuổi thanh xuân
Tình yêu thành đốm lửa
Thắp sáng chỉ một lần.
Hoa đào, hoa đào bay
Suốt một thời mê hoặc
Hoa đào rụng trên vai
Vẫn nồng nàn ánh mắt.
Lạc trong rừng hoa đào
Giữa lưng chừng dốc đợi
Có đi qua đời nhau
Cũng chỉ là sương khói.
Em ơi! Ngày tình nhân
Hoa đào xưa vẫn nở
Dù đã rụng bao lần
Bốn mùa vơi thương nhớ.
Nguyễn An Bình
Và một truyện của Nguyễn An Bình:
TRUYỆN NGẮN
RỒNG ĐÁ THÀNH NHÀ HỒ
Ánh trăng hạ huyền đã lên cao từ lâu và đang
chếch về phía tây như một cái móc câu vàng vành vạnh treo trên vòm trời tháng
8, mùa thu với tiếng gió thổi vi vu nhè nhẹ xen lẫn tiếng rên rĩ của côn trùng
càng làm cho không gian chìm đắm trong thê lương,tĩnh mịch.
Đêm đã về khuya, trời càng thêm lạnh, ngọn gió
phất phơ lay động những tấm rèm nhung treo trên lầu vọng nguyệt, ngọn đèn
trong phòng hắt dáng một bóng một người đang đứng yên hình gần như bất động. Hồ
Quý Ly đứng yên như thế đã lâu, nhiều đêm ông vẫn đứng lặng im như pho tượng,
thao thức không ngủ được, tâm trạng rối bời trước tình thế của đất nước. Ông
nhìn vào đêm đen, trầm tư. Tin tức cấp báo từ phương bắc qua những hỏa
hiệu được bắn lên từ các phong hỏa đài đặt từ biên cương Cao Bằng, Lạng
Sơn kéo dài đến thànhTây Đô cho thấy tình hình chiến sự đã cấp bách lắm rồi.
Các thám mã cũng lần lượt phi nhanh báo tin về sự chuyển động của quân địch. Kẻ
thù phương Bắc đã bộc lộ ý đồ xâm lược rõ rệt, đã chuyển quân sát tận biên giới
với danh nghĩa phù Trần diệt Hồ thế mạnh như nước vỡ bờ.
Thật ra
Hồ Quý Ly cũng dự đoán trước diễn biến tình hình sự việc nhưng không ngờ chiến
sự lại diễn ra nhanh như thế. Các vì vua cuối đời nhà Trần chỉ biết ăn chơi
hưởng lạc, phế mặc triều chính, còn quan lại, con cháu nhà Trần cũng chỉ mong
giữ lấy quyền cao chức trọng tận hưởng phú qui sợ gian khổ nên những đề xuất
cải cách mạnh mẽ của ông về chính trị, quân sự thường bị quan lại cựu triều dèm
pha phản đối, chính vì thế nhiều lần những đề xuất cải cách ấy không thực hiện
được. Biên cương phía nam thì Chiêm Thành dưới sự chỉ huy của Chế Bồng nga
nhiều lần đánh tới Thanh Hóa, thậm chí đem quân ra tới Thăng Long để quấy
nhiễu, cướp nhiều tài vật làm cho cuộc sống của người dân bao lần khốn đốn,
phương bắc thì triều Minh chờ cơ hội nước ta suy yếu để xâm lược. Là người có
tầm nhìn xa trông rộng ông thấy rõ được điều đó nên càng nung nấu quyết tâm
thực hiện hành động cải cách của mình.
Chính vì thế
ông đã hối thúc vua Trần Thuận Tông dời đô về Tây Đô để khi có biến dễ bề chống
đở, tránh áp lực nặng nề của giặc khi đánh vào Thăng Long nhưng cũng đồng thời
mưu tính một kế sách lâu dài: nếu triều Trần không còn phù hợp nữa thì phải
thay thế đi để xây dựng một vương triều hùng mạnh khác mới có thể chống đở thế
lưỡng đầu thọ địch được. Kế sách dời đô của ông lần nầy cũng vấp phải phản ứng
dữ dội của bọn quan lại triều Trần nhưng thế lực của ông lúc nầy đã đủ mạnh để
xoay chuyển tình hình. Thế là một cuộc thanh trừng đẩm máu xảy ra, những người
không theo ý hướng của ông đều nhận lấy những hậu quả khủng khiếp: kẻ thì chết
người bị tù đày, gia sản bị tịch biên. Ngay cả các quan chỉ vì can gián Hồ Quý
Ly không nên dời đô gây xáo trộn tình hình mà nên ở lại Thăng Long, nơi có núi
cao, sông sâu án ngữ, Họ còn cho rằng”Cốt ở đức, không cốt ở hiểm” nhưng Hồ Quý
Ly gạt ngang: : Ý ta đã quyết, không được can gián nữa nếu không muốn lãnh lấy
cái chết”. Thế là tất cả phải im lặng nếu không muốn chọn lấy cái chết.
Để xây thành
Tây Đô, Hồ Quý Ly phải huy động toàn bộ sức người sức của rất lớn, phu phen tạp
dịch rất nặng nề. Người già, đàn bà, trẻ em đều phải tham gia phục vụ công
trình. Ngày ngày, tháng tháng, dân phu binh lính mệt mõi vào các dãy Tượng Sơn,
Hang Ma, Đồi Cốc, Dọc Khoai chặt cây, đốn củi về đốt lò nung vôi, Lò nung vôi,
nung gạch mọc lên nhiều vô kể cũng không đáp ứng đủ vật liệu để xây thành. Dân
công phải bạt đồi, xẻ núi lấy đá phục vụ công trình, những phiến đá to lớn nặng
hàng tấn được khai thác chuyển về xây thành, công việc vô cùng nặng nhọc, nguy
hiểm. Các thợ kỹ thuật, nghệ nhân cũng phải làm việc suốt ngày đêm, lương thực
cung cấp không đủ, đói ăn, ốm đau, lại nửa vùng đất xây thành nước tù đọng
quanh năm nên bệnh dịch tràn lan làm phu phen chết dần, chết mòn không kể
xiết. Đặc biệt là việc chế tác đôi rồng đá đòi hỏi những nghệ nhân lành
nghề trong chạm khắc. Có người đã phải chết vì lỡ chạm sai một chi tiết không
vừa ý với nhãn quan của họ Hồ. Hồ Quí ly đã tuyển chọn từ các nghệ nhân có
tiếng tăm khắp các vùng về để chạm khắc. Tượng rồng được tạc bằng đá xanh.
nguyên khối, khi tạc xong có chiều dài 3 thước 8. Thân rồng thon nhỏ dài về
phía đuôi, uốn bảy khúc, vẩy phủ kín cả thân. Rồng có 4 chi, mỗi chi có 3 móng
ẩn hiện trong các vân mây mềm mại trông rất huyền ảo, sống động vô cùng. Các
khoảng trống dưới bụng và các ô tam giác ghép thành các bậc đều được chạm những
đóa hoa cúc và móc hoa lại thật lượn mềm, tỉ mỉ đến từng chi tiết một. Đôi rồng
khi chế tác xong được đặt nằm song song hai bên đường ngay trung tâm của tòa
thành từ cổng nam đi sang cổng phía bắc của thành Tây Đô tạo một cảnh quan thật
trang nghiêm, hùng tráng. Cứ thế tòa thành xây ròng rã suốt hơn 3 tháng trời
mới hoàn thành(1).
Thành xây xong, việc dời đô đã ổ định, dưới sự ủng hộ của các quan Trần Thiếu
Đế là cháu ngoại của ông phải thoái vị và ra chiếu nhường ngôi cho ông, Hồ Quí
Ly yên tâm có thời gian hoạch định kế sách lâu dài cải cách đất nước theo ý
định mình đã vạch ra từ trước, ông thực hiện một loạt những cải cách có lợi cho
đất nước như: Phát hành tiền giấy “Thông bảo hội sao” thay thế tiền đồng thuận
tiện cho việc cất giữ thông thương mua bán, quan tâm đến giáo dục, sửa chữa chế
độ thi cử cho phù hợp, đưa toán học vào thi cử để tìm người tài. Về quân sự, Hồ
Quý Ly ý thức rất rõ ý đồ xâm lược của nhà Minh phương bắc, ông càng ra sức tập
trung xây dựng lực lượng quân sự hùng mạnh, chú trọng cải tiến kỹ thuật vũ khí,
mở xưởng đúc vũ khí, tuyển thợ giỏi vào làm việc trong các công xưởng quân sự,
Hồ Nguyên Trừng đã chế được loại súng thần cơ có sức công phá mạnh mẽ, thủy binh
cũng được trang bị những chiến thuyến lớn hơn. Bên cạnh đó, ông chủ tr¬ương xây
dựng các hệ thống phòng tuyến trên mặt đất để phòng thủ quốc gia như thành Tây
Đô, thành Đa Bang và cả một hệ thống công trình phòng thủ có quy mô lớn, dài
gần 400 km kéo dài từ núi Tản Viên, men theo sông Đà, sông Hồng, sông Luộc đến
cửa sông Thái Bình. Nhưng những điều thực hiện được chỉ là bước ban đầu, thời
gian còn quá ngắn, công việc không phải lúc nào cũng xuôi chèo mát mái theo ý
Hồ Quý Ly, lòng dân còn bất ổn chưa nguôi hướng về triều cũ, tướng tài lác đác
như lá rụng mùa thu, quân lính tập luyện chưa thuần thục, quân lương còn thiếu
thốn nhiều liệu có thể chống đở thế giặc hùng mạnh được chăng, bao nhiêu mối lo
như hằn sâu lên nét mặt của thái thượng hoàng Hồ Quý Ly. Trong không gian im
vắng của đêm khuya như thế, bỗng ông nghe đâu đây có tiếng đàn tỳ bà vang lên
lúc khoan lúc nhặt, lúc xa lúc gần đưa đẩy theo chiều gió như mang một nỗi sầu
vạn cổ, lông mày ông chợt nhíu lại tỏ vẻ không vui. Từ chổ khó chịu ông lại ngạc
nhiên tự hỏi: Tiếng đàn phát ra từ đâu vậy, sao tiếng đàn như mang một nổi u
hoài uất hận khôn nguôi như thế. Ông cố gắng lắng nghe, hình như tiếng vang lên
từ vườn thượng uyển thì phải. Tò mò Hồ Quý Ly khẻ bước xuống lẩu, chậm rải chân
bước theo tiếng đàn đang bay trong gió. Dưới liềm trăng vàng treo trên ngọn
liễu, ông thấy thấp thoáng bóng dáng một thiếu phụ với y phục trắng tinh đang
ngồi trên băng đá cạnh khóm bông hải đường, người thiếu phụ có mái tóc đen mượt
mà óng ả dưới ánh trăng chảy dài xuống bờ vai thon nhỏ, bàn tay mềm mại đang
lướt nhẹ trên từng phím đàn. Dưới bàn tay tài hoa ấy, cây đàn vang lên
những âm thanh trầm bổng, dìu dặt lúc thì trầm mặc u buồn, lúc thì như thở than
ai oán thê lương vô cùng.
Trong không gian
khuya khoắt tĩnh mịch làm cho Hồ Quý Ly như lạc vào một nơi đầy ma mị,
liêu trai. Ông tự hỏi mình đang ở đâu đây và bất giác chợt rùng mình, cái lạnh
như len vào từng đốt sống lưng. Người thiếu phụ nầy là ai? Ma quỷ, tiên nương
hay là hồ ly? sao lại xuất hiện trong đêm hôm khuya khoắt như thế nầy, ngay
trong vườn thượng uyển của ta? Tuy có phần sợ hải nhưng không kiềm chế nổi sự
tò mò, Hồ Quý Ly bước tới gần thêm một chút nữa để nhìn cho rõ mặt người đàn
bà. Dưới vòm trăng hạ huyền, gương mặt thiếu phụ hiện lên thật vô cùng diễm lệ
mà hình như trong đời ông chưa từng thấy vẻ đẹp tự nhiên nhưng lại lôi cuốn như
thế. Trên nét mặt yêu kiều đó lại thoảng lên nét buồn muôn thuở. Ông thử lục
tìm trong trí nhớ xem thiếu phụ nầy có phải người ở trong cung không nhưng
không tài nào nhớ được. Hồ Quý Ly lên tiếng:
- Nàng là ai? Tại sao đêm hôm khuya khoắt lại
đàn một khúc cầm nghe buồn thảm thế? Ta nhớ như chưa từng gặp nàng trong cung
của ta lần nào thì phải?
Người thiếu phụ đang chìm đắm trong cung đàn, thả hồn mình vào những phím tơ
lòng, không biết có người bên cạnh đang lắng nghe tiếng đàn của mình tự nảy
giờ. Nàng chợt giật mình thoát khỏi trạng thái mơ hồ lãng đãng như khói sương
ấy, nhẹ nhàng đặt chiếc đàn lên chiếc bàn cẩm thạch kề bên, đứng lên vòng tay
cúi đầu đáp:
- Tiện thiếp xin ra mắt
thượng hoàng.
Hồ Quý Ly ngạc nhiên:
- Nàng biết ta ư?
- Ngài là đấng quân
vương, cả đất nước nầy đều biết chẳng lẽ thiếp lại không biết người ư?
- Nàng chưa trả lời câu hỏi
của ta.
- Thiếp không phải là người
trong cung. Nhà thiếp ở dưới chân thành đông của tòa thành nầy.
Hồ Quý Ly lại càng ngạc nhiên:
- Dưới chân thành đông ư?
Nàng làm sao vào đây được?
- Không có nơi nào thiếp
không thể đến được thưa thượng hoàng.
Không để cho Hồ Quý Ly hết ngạc nhiên, người thiếu phụ tiếp lời:
- Tên thiếp là Bình Khương,
là vợ của chàng cống sinh Trần Công Sỹ được thượng hoàng tin tưởng giao việc
giám sát, đốc thúc phu phen xây bức tường thành phía đông.
Hồ Quý Ly
nhíu mày suy nghĩ trong giây lát, chợt ông nhớ ra điều gì đó. Thì ra người
thiếu phụ đứng trước mắt mình là vợ của Trần Công Sỹ người được ông giao phó
xây dựng đoạn thành phía đông. Ông nhớ lại tất cả rồi. Để gấp rút dời đô từ
Thăng Long về Tây Đô, Hồ Quý Ly đã huy động một số lượng lớn dân quân ngày đêm
xây thành, đắp lũy, phu phen làm việc cực nhọc vô cùng, ngày đêm không nghỉ để
đảm bảo tiến độ nội trong 3 tháng phải hoàn thành “kinh đô bất khả chiến bại”,
Trong tình thế dầu sôi lửa bỏng lúc ấy, các tường thanh các mặt khác tới kỳ đã
từng bước hoàn thiện công trình thì đoạn thành phía đông do Trần Công Sỹ phụ
trách xây vừa xong lại đổ sập xuống không rõ nguyên nhân khiến cho Hồ Quý Ly vô
cùng tức giận. Ông nghi ngờ Trần Công Sỹ có ý đồ phản nghịch nên cố ý làm chậm
trể công việc xây thành làm lỡ việc lớn. Trong cơn giận dữ, Hồ Quý Ly đã ra
lịnh cho quân sĩ chôn sống chàng vào vị trí bức tường thành vừa bị đổ để làm
gương răn đe tất cả những ai bất tuân thượng lệnh và giao phó trọng trách xây
tường thành tiếp tục lại cho viên quan khác. Sau nầy ông còn nghe quần thần kể
lại, vợ Trần Cống Sỹ tên là Bình Khương nghe tin đã chạy đến ngự sử đài than
khóc kêu oan cho chồng, nhưng ai nấy đều sợ uy của Hồ Quý Ly không dám vào bẩm
báo lại. Vì quá tức giận, nàng chạy đến nơi chồng bị chôn sống, dùng toàn bộ
sức lực để xô ngả bức tường dầy định mệnh ấy mong tìm thấy xác của chồng trong
đó nhưng bức tường không hề lay chuyển. Vô cùng tuyệt vọng, nàng liều mạng đập
đầu vào bức tường thành để tự vẫn theo chồng. Phiến đá nơi nàng tuẩn tiết in
sâu dấu vết đầu người và đôi bàn tay cào cấu của nàng. Cảm thương trước tấm
lòng chung thủy sắt son của người thiếu phụ, người dân nơi đây đã lập đền thờ
nàng ở sát vách tường cửa phia đông thành Tây Đô. Sự việc xảy ra đã lâu Hồ Quý
Ly hầu như không còn nhớ nếu người thiếu phụ không nhắc đến tên chồng mình. Hồ
Quý ly nghĩ đến đây đã thấy rờn rợn vì biết người đang đối diện với mình chỉ là
hồn ma bóng quế mà thôi, chẳng lẽ nàng ta hiện hình về đòi đền mạng ta
chăng?(2)
Hồ Quý Ly cố giữ bình
tĩnh, nhưng câu hỏi có vẻ hơi gượng gạo::
- Ta nghe người báo là nàng
đã tự vẫn chết rồi kia mà.
Nàng Bình Khương nhìn
nhà vua, giọng nói u buồn xen lẫn oán trách:
- Người nói không
sai. Thiếp đã không còn sống trên cõi đời nầy, thân xác vùi chôn dưới ba tất
đất từ lâu, mồ chắc đã xanh cỏ, nhưng linh hồn còn mang nhiều nỗi u uất, phảng
phất trên trần gian chưa thể siêu thoát được.
Hồ Quý Ly có vẻ giận
dữ, gằn giọng:
- Điều gì làm cho
linh hồn nàng không tan? Chẳng lẽ với cái tội làm hỏng việc lớn của ta chồng nàng
bị giết oan khuất lắm sao?
- Thưa thượng hoàng ,
đối với người cái chết của một chàng cống sỹ chẳng qua chỉ là con giun cái kiến
mà thôi. Hơn nữa trong cơn thịnh nộ quyết định tàn bạo ấy cũng để thỏa mãn
quyền uy tối thượng của mình mà thôi thì còn suy xét làm gì nỗi oan khuất của
người dân chứ. Thượng hoàng có biết tường thành phía đông nơi chồng thiếp phụ
trách xây dựng trên một nền đất yếu, phía dưới có mạch nước ngầm ăn thông ra
Lỗi Giang nên không thể chịu đựng sức nặng hàng ngàn tấn của tường thành được,
đổ sập là điều không thể tránh khỏi được. Thiếp đã đến ngự sử đài kêu oan nhưng
không ai chú ý nghe lời giải trình của thiếp.
Hồ Quý Ly tỏ vẻ
nghi ngờ:
- Làm sao nàng
biết tường thành xây trên đất yếu? Phải chăng nàng nói để chạy tội khi quân của
Trần Công Sỹ chăng?
Bình Khương có
vẻ không vui:
- Người trần
không thể biết được điều bí mật nằm trong lòng đất thưa thượng hoàng. Hình như
trong xử lý công việc người chưa bao giờ tin tưởng một ai. Thiếp biết thượng
hoàng là người có chí lớn, người dời đô về đất nầy để mưu đồ đại sự, xây dựng
một vương triều hùng mạng để lưu danh muôn đời. Nhưng dục tốc bất đạt, xây
thành một công trình to lớn như thế chỉ trong vòng 3 tháng chỉ bằng sức lao
động tay chân cua con người là một việc làm kinh khiềp chẳng khác gì việc dời
non lầp biển, đã làm tài nguyên đất nước kiệt quệ, sinh linh dân đen bị nướng
vào lửa đỏ. Làm vua chỉ muốn người ta phục tùng mệnh lệnh, chỉ xem chung quanh
mình thấy ai cũng có thể đồ phản nghịch, nghi ngờ tất cả mọi thứ dù sự thật
hiện ra trước mắt và luôn dùng quyền uy để bức hại người khác thì không thể là
một đấng minh quân được.
Nếu như
bình thường, chắc chắn Hồ Quý Ly sẽ nổi cơn lôi đình thịnh nộ, người dám nói ra
câu phạm thượng đó thế nào cũng thịt nát xương tan, nhưng biết Bình Khương là
người đàn bà khác thường, chỉ là hồn ma bóng quế, vất vưỡng trên đầu cây ngọn
cỏ thì cơn giận cũng nguôi đi, giận dữ cũng chẳng có ích gì, Hồ Quý Ly
kìm nén cơn giận trong lòng nói:
- Ta tạm
tin lời nàng vậy nhưng nàng nói ta dùng bạo quyền để cai trị dân chẳng phải quá
đáng sao?
- Đây
không phải là lời nói của thiếp mà đó là lời truyền tụng trong dân gian. Người
ở trong cung cấm cách ly với đời thường, mắt không được thấy tai không được
nghe, làm sao hoàng thượng có thể thấu hiểu được nỗi khổ của dân đen kia chứ?
Bài đồng dao mà bọn trẻ con nghêu ngao hát khắp kẻ chợ ai mà không hay không
biết.
Hồ Quý Ly lộ vẻ
ngạc nhiên:
- Bài hát đồng
dao ư? Bài hát nói điều gì thế?
- Thiếp xin đọc
hầu hoàng thượng xin trước hết xin người không được giận dữ
Hồ Quý Ly gật đầu:
- Được. Ta hứa.
Nàng đọc đi. Ta nghe.
Bình Khương bắt đầu
đọc:
Bạt núi để xây thành
Phu phen nhiều lao khổ
Vợ con lìa cha anh
Thành xây xong lại sập
Xương chất đầy kè đá
Hào sâu đỏ máu dân
Thân gầy còm đói rách
Ai
oán thấu trời xanh.
Những tưởng lục thập ký
Nào ngờ chỉ sáu năm
Thành cao dù muôn trượng
Không lớn bằng lòng dân.
Dứt lời, Bình
Khương nói như nói chính mình:
- Long xà ẩm thủy lục niên
ký chủ. Số trời đã định không thể cải mệnh được. Tiếc thay tích củi ba năm đốt
cháy một giờ. Chỉ tội cho muôn dân vô tội một lần nữa lại nướng mình trong lửa
đỏ hung tàn của giặc ngoại xâm.
Hồ Quý Ly
nghe những lời nói của Bình Khương như từ cỏi âm vọng về. Ông chợt biến sắc
không hiểu vì sao người thiếu phụ nầy lại biết điều bí mật mà chỉ hai cha con
ông biết mà thôi. Trong đầu ông miên man suy nghĩ về điều nàng ta vừa nói. Mưu đồ
xây kinh đô mới để thừa dịp truất ngôi nhà Trần đã manh nha từ lâu trong đầu
của Hồ Quý Ly, mặc dù nắm giữ quyền cao chức trọng, dưới một người trên vạn
người, nhưng Hồ Quý Ly nhận thấy các ông vua nhà Trần đã quá bạc nhược, u mê
nên muốn tự mình thành lập một vương triều mới. Ông tin rằng với tài năng của
mình sẽ xây dựng một đất nước hùng mạnh, phía nam có thể đè bẹp Chiêm Thành,
phía bắc có thể dựa vào thành cao hào rộng thế núi hiểm trở có thể chống lại kẻ
thù phương Bắc. Để thực hiện việc dời đô, xây dựng một vương triều vững mạnh
cho riêng mình, Hồ Quý Ly đã bí mật cùng một vài cận thần tâm phúc của mình đi
tìm thế đất tốt để xây thành. Khi thuyền xuôi dọc theo sông Mã đến động An Tôn
ông thấy nơi đây thế núi hiểm trở, đất đai trù phú, hình thù như hình quả ấn
của trời, sông Mã như long mạch dài hàng ngàn dặm, xung quanh còn có nhiều phụ
lưu bắt nguồn từ Trường Sơn như sông Luồng, sông Âm, sông Chu, sông Bưởi
giống như những chi long mạch chầu vào long mạch chủ ông rất vừa lòng, ưng ý.
Đứng trên núi cao, có thể
ngắm nhìn kỷ lưỡng địa thế xung quanh vùng động An Tôn. Cảnh quan thật hùng vĩ,
địa thế vô cùng hiểm trở. Phía đông nam có núi Đốn làm tiền án, tây bắc có núi
Song Tượng. Một con voi chầu về hướng bắc, một con khác lại quay đầu về hướng nam
canh giữ núi Mâm Xôi. Phía Tây Nam có 5 ngọn núi đá vôi: 3 ngọn gọi là Kim
Ngọ(ngựa vàng), 2 ngọn khác gọi là Kim Ngưu(trâu vàng). Đây là một mỏ đá vô
cùng to lớn có thể sử dụng để xây thành vững chắc. Thời bình với đồng ruộng phì
nhiêu có thể cày cấy tích lũy lương thực, thời chiến có thể dựa vào thế núi
hiểm trở tự nhiên, với thành cao hào sâu cự địch được.
Bên ngoài có nhiều dãy núi vòng cung bao bọc vây kín bốn phương tám hướng. Vòng
trong là sông Mã, sông Bưởi lượn tròn như những chiến hào tự nhiên vây quanh. Ở
trong cùng, một khu đất nổi lên như một cái ấn của trời, Bên trên là vòm trời
xanh như chiếc lọng che cho cái ấn thật huyền ảo. Từ ngã ba Bông nối vài ngã ba
Đầu là một nhánh chảy vào đền Hàn, Châu Tử xuống bến Lèn ra cửa Lạch Trường. Một
nhánh qua đất Hàm Rồng đổ ra cửa Hới tạo thành thể lưỡng long chầu nguyệt.
Thành xây trên động An Tôn nên gọi là thành An Tôn, còn gọi là thành Tây Đô(3)
Là người am hiểu phong thủy, Hồ Quý Ly khi chọn thế đất nầy để xây thành ông
rất lấy làm tâm đắc, nói với các con mình: Đất nầy là đất Thạch bàn long xà lục
thập niên ký(có nghĩa thế đất như rồng chầu rắn cuốn nầy vững như bàn thạch có
thể trụ được ít nhất 60 năm) nhưng Hồ Hán Thương, người con trai thứ của Hồ Quý
Ly, am hiểu phong thủy sau khi xem kỷ thế đất đã nói với ông: “Con lấy làm lạ,
như phụ hoàng nói: đất nầy đúng là đất rồng chầu rắn cuốn có thể phát tích đế
vương nhưng con xem đi xem lại có lúc lại giống thế Long xà ẩm thủy lục niên ký
chủ, chỉ phát được 6 năm thôi. Hồ Quý Ly cho rằng kiến thức phong thủy của Hồ
Hán Thương chưa tinh tường nên cũng không chú ý lắm vào nhận định của con.
Câu chuyện phong thủy
nầy chỉ có cha con ông biết mà thôi, tại sao dân gian lại biết được mà truyền
tụng qua bài đồng dao nầy? Có thật không chuyên gì cũng không thể qua mắt thế
gian chăng? Bài hát đồng dao thật sự làm cho ông bối rối, lo ngại. Hồ Quý Ly
cũng biết những hành động quyết liệt của mình tranh đoạt ngôi vị nhà Trần cũng
là một điều mà nhiều người không phục, nên khi đã cũng cố được ngôi vị, chỉ sau
7 tháng làm vua ông đã nhường ngôi lại cho Hồ Hán Thương để làm thái thượng
hoàng cũng nằm trong mưu tình của ông. Lẽ ra theo lễ tục, ông phải nhường ngôi
cho người con cả là Hồ Nguyên Trừng. Hồ Nguyên Trừng là một người rất giỏi võ
nghệ, lại là người có tài thiết kế vũ khí lợi hại rất xứng đáng được ông truyền
ngôi nhưmg lại là con của người vợ cả, không có quan hệ huyết thống với dòng
tộc họ Trần , nếu lập Trừng lên làm vua, chẳng khác gì như đổ thêm dầu vào lửa,
khiêu khích sự chống đối của đám quan lại, giới sĩ phu và một bộ phận lớn nhân
dân trong nước, đồng thời cũng tạo thêm lí do cho giặc Minh dễ bề thực hiện ý
đồ xâm lược nước ta với chiêu bài “phù Trần diệt Hồ”, vì thế Hồ Quý Ly quyết
định chọn người con thứ là Hồ Hán Thương lên giữ ngôi vua, Một điều dêc hiểu Hồ
Hán Thương là con của công chúa Huy Ninh, vợ lẽ của Hồ Quý Ly, đồng thời cũng
là con ruột của Thượng hoàng Trần Nghệ Tông, Hán Thương gọi Nghệ Tông bằng bác,
gọi vua Thuận Tông(con Nghệ Tông) bằng anh và gọi vua Kiến Tân(con Thuận Tông)
bằng cháu, nên việc lập Hồ Hán Thương làm vua cũng nằm trong tính toán, trù
liệu của Hồ Quý Ly cả nhằm lôi kéo những người còn lưu luyến với triều đại cũ.
Như đoán
được sự băn khoăn trong lòng Hồ Quý Ly, Bình Khương nói nhẹ nhàng:
- Câu chuyện
đối đáp giữa người và thế tử Hán Thương về long mạch, cũng như việc lập thế tử
Hán Thương lên làm vua thay vì Nguyên Trừng thượng hoàng có thể giấu giếm được
dân đen con đỏ chứ làm sao che mắt được trời phật thánh thần ma quỷ, xin người
chớ lấy làm ngạc nhiên như thế.
Hồ Quý Ly nghe nàng
nói hình như tỉnh ngộ. Thì ra những mưu tính của ông dù ngấm ngầm bí mật hay
công khai cũng không qua khỏi thiên cơ. Có điều mưu sự tại nhân, thành sự tài
thiên mà thôi. Chẳng lẽ bao công sức ông đổ ra với hy vọng tạo dựng một vương
triều hùng mạnh với những cải cách lớn lao, lưu danh cho muôn đời sau lại thất
bại thế nầy ư?
Hồ Quý Ly thở hắt một
hơi dài buồn bã, ngước nhìn bầu trời đêm, những ngôi sao lấp lánh, xa tít trên
bầu trời kia có hiểu được tâm trạng ngổn ngang của ông lúc nầy không? Ông đang
suy nghĩ gì trong đầu không ai có thể đoán được. Vài tiếng chim đêm đập cánh
bay đi để lại tiếng kêu nghe não nuột, mấy cành liễu lay động tạo thành những
bóng đen lăn quăn trên mặt đất như mấy con rắn đang trườn mình quăng tới tìm
mồi, vài chiếc lá rơi, tiếng gió thổi lạo xạo cũng không làm cho ông thoát khỏi
nỗi trầm tư, muộn phiền. Ánh trăng hạ huyền đã dần dấn mờ nhạt. Phía chân trời
bắt đầu xuất hiện một quầng sáng báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Một ngôi sao lẻ
loi, muộn màng băng ngang qua vườn thượng uyển mất hút về phìa bầu trời xa xôi
đầy bí ẩn. Trong thời khắc ấy, tiếng Bình Khương hình như thoảng bay đi trong
gió:
- Âm đức
của hoàng thượng không dầy, chính chính sách hà khắc, coi sinh mạng dân đen như
ngọn cỏ, bao nhiêu xương máu người dân vô tội đã đổ xuống để xây thành đắp lũy,
tiếng than oán ngút trời cao đã làm cho long mạch bị đứt đoạn không phát triển
được. Thời cuộc sẽ có nhiều biến chuyển khôn lường, lòng người lại đang ly tán,
không thể quy về một mối. Chỉ mong hoàng thượng sáng suốt mới mong tình thế
thay đổi phần nào, cục diện may ra sáng sủa hơn. Không một triều đại nào có thể
thống trị thiên hạ bằng bạo quyền được, muôn đời phải biết lấy dân làm gốc
thiên hạ mới thái bình, đất nước mới không rơi vào ách thống trị của ngoại
bang. Người đã tạo ra được một cái cớ có một không hai để kẻ thù xâm lăng nước
ta với danh nghĩa phù Trần diệt Hồ, rồi sau đó đất nước sẽ ra sao chắc người
cũng đoán được. Mấy lời khẩn thiết tự đáy lòng xin hoàng thượng nhớ lấy.
Khi Hồ Quý Ly ngước
lên muốn hỏi Bình Khương điều gì đó thì không thấy nàng đâu nữa, xa xa chỉ thấy
một bóng trắng lướt qua hàng cây rồi mờ dần mất hẳn. Hồ Quý Ly nhìn theo, lẩm
bẩm như nói với chính mình:
- Nàng đã theo ngọn
gió bay đi rồi về nơi mà nàng cần đến, phải chi ta nghe được những lời nói của
nàng sớm hơn, có lẽ cuộc đời ta mắc nợ với nàng, với chồng nàng với cả dân tộc
nầy. Cuộc đời ta chấm hết ta không hề hối tiếc, chỉ tiếc sự nghiệp lớn chưa
hoàn thành, người đời sau có hiểu được chí lớn của ta chăng?
Lần đầu tiên trong cuộc đời
mình, Hồ Quý Ly không còn tin vào những quyết đoán táo bạo của mình nữa, chắc
ta đã già rồi. Ông chợt thở dài buồn bã.
*
Quả đúng như
lời nàng Bình Khương nói, Tháng 9 năm 1406 quân Minh phát động chiến tranh xâm
lược nước ta với chiêu bài phù Trần diệt Hồ, mặc dù đã tích cực phòng bị, xây
dựng thành lũy kiên cố và huy động quân binh cao nhất, đặt quân phòng ngự giữ
những nơi hiểm yếu quan trọng nhất nhưng quân nhà Hồ liên tiếp thua nhiều trận
liền. Đúng như lời Hồ Nguyên Trừng (con trai Hồ Quý Ly) từng nói với cha mình
“thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo”. Cuộc chiến tranh đã thu hút
được một số lực lượng lớn người dân trong nước đứng lên chống lại nhà Hồ, ngay
cả trong quân binh nhà Hồ cũng có nhiều người quay đầu chống lệnh. Chiến tranh
giữa hai bên nhanh chóng ngã ngũ, quân binh nhà Hồ liên tiếp thua các trận đánh
lớn ở thành Đa Bang, Hàm Tử. Tháng 4/1407 quân Minh đánh tới thànhTây Đô. Cầm
cự chẳng bao lâu thì thành vỡ, cha con Hồ Quý Ly kéo tàn binh chạy về cửa biển
Kỳ La-Hà Tỉnh thì quân Minh đuổi theo rất gấp. Đến ngày 11,12 thì lần lượt Hồ
Quý Ly, Hồ Nguyên Trừng và Hồ Hán Thương đều bị giặc bắt. Nếu tính từ năm 1400,
khi Hồ Quý Ly truất ngôi nhà Trần, tự lập làm vua, đóng đô ở Tây Đô cho đến
tháng 4 năm1407 khi cha con Hồ Quý Ly bỏ thành chạy về Kỳ La lánh nạn và bị
giặc bắt thời gian chỉ hơn 6 năm, phải chăng ứng với lời tiên đoàn nhà Hồ chỉ
tồn tại được 6 năm của Hồ Hán Thương hay là ý trời trong bài đồng dao mà nàng
Bình Khương đã đợc cho Hồ Quý Ly nghe?
Có một điều cần
phải nói thêm với bạn đọc, cùng thời gian khi cha con Hồ Quý Ly bị giặc bắt
giải về Tàu, Thành Tây Đô cũng xảy ra một câu chuyện lạ lùng: Trời đất đang
quang đãng, trong vắt bỗng sấm chớp từ đâu nổi lên đùng đùng, từng trận mưa lớn
đổ xuống như trút nước, lũ từ thượng nguồn sông Mã, sông Bưởi, sông Chu kéo về
ồ ạt như một trận đại hồng thủy. Trời tối mịt mùng, sấm chớp rền vang khắp nơi,
nước sôi réo ùng ục như thiên binh vạn mã rầm rập từ đâu kéo về, lẫn trong
tiếng gió hú, tiếng sấm vang như còn có tiếng những oan hồn uổng tử cất lên
tiếng kêu bi thương, ai oán như đòi mạng, nhà nào nhà nấy đều hoảng sợ
xanh cả mặt mày, ôm chặt lấy nhau mà khóc, người bình tĩnh hơn cuốn vội vài vật
dụng cần thiết rồi bồng bế nhau kéo lên đồi cao, núi sâu lánh nạn. Mãi đến ba
bốn hôm sau trời mới quang, mưa mới tạnh, mọi người mới lũ lượt nhau kéo về quê
cũ. Trong thành Tây Đô thật tiêu điều xơ xác, một phần bị giặc Minh cướp bóc
tàn phá, một phần do tác hại khủng khiếp của cơn lũ vừa tràn qua. Rác rến, bùn
xình, xác súc vật chết vương vãi khắp nơi, điều đặc biệt đôi rồng đá được chế
tác tuyệt mỹ, tượng trưng cho sức mạnh vương triều nhà Hồ tự nhiên biến mất
không còn để lại một chút dấu vết nào, không ai hiểu vì sao?(4)
Tháng 1/2018
NGUYỄN AN BÌNH
***
(1) Theo truyền thuyết: Thành Tây Đô được xây
trong 3 tháng thì xong nhưng xét về khối lượng công trình có người cho rằng xây
trong 3 năm hay nhiều năm mới xong.
(2) Hiện nay đền thờ nàng Bình Khương
vẫn còn tồn tại sau hơn 600 năm với nhiều lần trùng tu. Ngôi đền tọa lạc dưới
chân bờ thành phía đông thuộc làng Đông Môn, xã Vĩnh long huyên Vĩnh lộc tỉnh
Thanh Hóa. Trong đền còn lưu giữ một phiến đá kỳ lạ có in hình giống như đôi
bàn tay và chiếc đầu người phụ nữ, người dân cho rằng đó là vết tích đập đầu tự
tử kêu oan cho chồng của nàng Bình Khương.
(3) Theo sách “Thành nhà Hồ và những câu
chuyện xây thành” của tác giả Phạm Văn Chấy
(4) Theo ông Nguyễn Xuân Toán, Phó giám đốc
Trung tâm Bảo tồn di sản thành nhà Hồ thì đôi rồng đá trên được người Pháp phát
hiện lại vào năm 1938 khi họ làm một con đường nội địa trong thành nhưng cả hai
đều bị mất đầu. nguyên nhân của việc đôi rồng mất cả đầu có nhiều giả thuyết
được đặt ra, nhưng chưa giả thuyết nào thuyết phục vì chưa trưng ra được những
chứng cứ rõ ràng có thể chấp nhận được.
TIỂU SỬ VĂN HỌC
NGUYỄN AN BÌNH
Nhà thơ, tên thật Lương Mành, sinh năm 1954
tại An Bình Cần Thơ. Cựu học sinh trung học Phan Thanh Giản Cần Thơ. Theo học
Đại Học Sư Phạm Việt Hán và Đại Học Khoa Học Cấn Thơ. Giáo viên Ngữ Văn trường
trung học Đoàn Thị Điểm Cấn Thơ, đã nghỉ hưu, định cư tại Sài Gòn từ năm 2016.
Bắt đầu tham gia văn nghệ rất sớm từ năm 16 tuổi. Trước năm 1975 cùng nhiều bạn
học thành lập Bút Nhóm Tình Thơ Tây Đô, có bài trên các tạp chí thời danh như
Văn, Văn Học, Tuổi Ngọc, các tuần báo nhật báo khác như Tiền Phong, Phụ Nữ Ngày
Mai, Phụ Nữ Diễn Đàn, Điện Tín, Việt Nam,Tin Sáng, Thời Đại Mới, Sống. Thăng
Tiến, Trắng Đen…
Sau 1975 nghỉ viết một thời gian dài mới viết
lại, có bài đăng trên các tạp chí: Văn nghệ Cần Thơ, Vn Cà Mau, Vhvn Bạc Liêu,
Vn Chiêu Anh Các(Kiên Giang), Vn Hậu Giang, Vn Thất Sơn(An Giang),Vn Hàm
Luông(Bến Tre), Vn Bình Dương, Vn Tây Ninh, Vn Nha Trang(Khánh Hòa),Vn Phú
Yên,Vn Trà Vinh, Vn Bình Định, Vn An Nhơn(Bình Định), Vn Sông Trà(Quảng Ngãi),
Vn Tam Kỳ(Quảng Nam), Vn Non Nước(Đà Nẵng), Vn Lang Bian(Lâm Đồng, Vn
Chưyangsin(Đắk Lắk), Vn Non Nước(Cao Bằng), Vn Thái Nguyên, Vn Đồng Tháp,
Vn Phú Yên, Vn Tiền Giang, Vn Bắc Ninh, Vn Nâm Nung (Đắk Nông), Vn Bà Rịa-Vũng
Tàu,Vn Bình Thuận, Vn Vĩnh Phúc, Kiến Thức Ngày Nay, Giáo Dục Tp. Hồ Chí Minh.
Tập san: Quán Văn, Ra Khơi, Hương Thiền, Đất Đứng, Hương Quê Nhà, Áo Trắng,
Sông Quê, Văn Hóa Phật Giáo, Vô Ưu (Đắk Lắc). Báo chí: Báo Văn Nghệ(Hội Nhà Văn
VN), Văn Nghệ Tp Hồ Chí Minh, Giáo Dục&Thời Đại, Người Lao Động, Đà Nẳng,
Công An Đà Nẳng, Phú Yên, Bình Định, Ninh Thuận, Bà Rịa-Vũng Tàu, Đồng Nai chủ
nhật, Vĩnh Phúc cuối tuần, Cần Thơ, Đắk Lắk, Quảng Trị, Vĩnh Long, Quảng Nam.
Tạp chí, báo ngoài nước: Ngôn Ngữ, Thư Quán Bản Thảo, Trầm Hương, Tin Văn, Văn
Hữu, Văn Học Mới, Văn Học Việt, Người Việt, Việt Luận(Úc), Chánh Pháp(Hoa Kỳ),
Có mặt trên 100 tuyển tập thơ văn, nhiều trang VHNT trong và ngoài nước và trên
1000 bài thơ được nhiều nhạc sĩ phổ thành ca khúc.
Tác phẩm đã xuất bản:
Đường Tim(thơ 1970), Ngọn Thủy Triều(thơ
1971), Hai Phương Trời Nhớ(thơ 1972), Hoa Học Trò(thơ 1972). Nửa Trời Tương
Tư(thơ 1972), Mờ Bóng Thiên Thu(1973), Mưa Hồng(thơ 1973), Trên Đỉnh Mùa
Xuân(thơ 1973 in chung), Những Cánh Phượng Hồng(thơ 1973 in chung), Hoa Xưa(thơ
1975 cùng Thạch Long), Còn Một Chút Mưa Bay(thơ 2013 NXB Hội Nhà Văn), Mười Năm
Bóng Ngựa Qua Thềm Cũ(thơ 2016 NXB Hội Nhà Văn), Hạ Đỏ Lên Trời(thơ 2018 NXB
Hội Nhà Văn), Thơ Tình Nguyễn An Bình(thơ 2018 NXB Nhân Ảnh- Hoa Kỳ), Tình Thơm
Màu Giấy Mới(thơ, nhạc 2018 NXB Nhân Ảnh-Hoa Kỳ), Hành Trình Đất Và Nước(2018
thơ NXB Hội Nhà Văn), Bộ sách thơ phổ nhạc gồm 5 quyển 450 ca khúc(2019), Cỏ
Hoa Thời Áo Trắng(thơ 2019, NXB Hội Nhà Văn), Tiếng Đàn Đá Trên Đỉnh Sơn
Trà(Tập truyện ngắn -2020, NXB Thanh Niên), Đêm Trăng Đọc Thơ Đường(phóng dịch
thơ Đường – 2020, NXB Hội Nhà Văn), Đà Lạt, Tình Tôi Người Lữ Khách(2022, NXB
Hội Nhà Văn), DVD nhạc Còn Một Chút Mưa Bay (Nhạc sĩ Hoài Yên thực hiện), Có
mặt trong nhiều DVD nhạc của nhạc sĩ Huy Đạt, Hoài Yên, Thanh Danh, Vũ Thế
Dũng, …
Được giới thiệu trong các sách:
Chân dung văn nghệ sĩ qua góc nhìn Ngô
Nguyên Nghiễm tập 1,Tác giả Việt Nam(Lê Bảo Hoàng), 44 năm Văn học Hải Ngoại
Việt Nam(tập 7), được giới thiệu trong chương trình TÁC GIẢ TÁC PHẨM trên hệ
thống truyền thông VIỆT NAM HẢI NGOẠI – HOA KỲ, được giới thiệu trong chương
trình THI CA ĐIỂM HẸN trên đài VOH(Đài tiếng nói nhân dân tp.HCM).
Tham gia các dự án:
Trong Ban Biên Tập Dự Án Thơ Bạn Thơ, Văn Bạn
Văn và tạp chí RA KHƠI tại Việt Nam.
Trước khi dịch bùng phát ở TP HCM tôi và
Nguyễn An Bình thường hẹn nhau ra cà phê Sách.Một nơi rất lý tưởng để nhâm nhi
cà phê, trò chyện, giao lưu văn hoá hay hồi ức về chuyện đời, chuyện nghề.nhưng
từ khi tôi rời thành phố về Xuyên Mộc đến nay là 2 năm.Hai năm chưa một lần trở
lại SG.Rất nhớ bạn bè, anh em và người quen nơi đất lành chim đậu ấy.Nhớ đến
cồn cào nhưng hai năm rồi vẫn dịch bệnh thì làm sao về?Giờ đây chỉ còn cách
sống chung với dịch.Có nghĩa là dù tuân thủ 5 K vẫn là chuyện hên xui, may rủi
khó lường.Cho nên đành thăm hỏi nhau qua điện thoại.Nguyễn An Bình vẫn chịu khó
gửi sách của anh và bạn bè cho tôi đọc dù là nơi hóc bà tó…
Trần Dzạ Lữ
( Xuyên Mộc tháng 2.2022)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét