BÀI VIẾT VỂ TẬP THƠ TRANH CỦA NHÀ THƠ HỒNG LĨNH-PHẠM THỊ QUÝ
Viết
về tập Thơ Tranh Hồng Lĩnh Phạm Thị Quý
* NGUYỄN AN BÌNH
Khi tôi về Sài Gòn định cư và tiếp tục con đường văn chương
của mình, trong những lần tham gia sinh hoạt văn nghệ ra mắt tập san Quán Văn và
khá nhiều tụ điểm triển lãm khác, không ít lần tôi gặp và trò chuyện, đi du khảo
các nơi cùng vợ chồng họa sĩ Lê Triều Điển – Hồng Lĩnh Phạm Thị Quý. Một lần tôi
hỏi nhà thơ Phạm Thị Quý: Chị quen sao với các bạn văn ở Cần Thơ mà tôi thấy đôi
lúc chị đăng ảnh về Cần Thơ cà phê với họ vậy. Chị cười: Có thể nói tôi là người
Cần Thơ mà vì tôi từng học ở trường trung học Phan Thanh Giản. Tôi ngỡ ngàng vô
cùng – Chị học PTG năm nào, ban gì? Năm 71-72 lớp 12 ban C. Tôi khẽ kêu lên: Trời
ơi! Đồng môn, đồng cấp, đồng học chung một dãy lầu lại sát lớp nhau mà tôi đâu
có biết. Chị cũng ngạc nhiên không kém.
Thật vậy, trường trung học Phan Thanh Giản Cần Thơ ngày đó
khuôn viên rộng lớn và có bề dày lịch sử không thua kém trường Pétrus Ký Sài Gòn
hay trường Nguyễn Đình Chiểu Mỹ Tho. Trường có 3 dãy lầu từ trước cho đến sau,
mỗi dãy lầu có 12 phòng học(trên 6 dưới 6). Lớp 12A2 của tôi sát lớp 12C của chị
và chỉ cách nhau bằng một vách gỗ. Muốn vào lớp 12C phải đi qua hành lang lớp
12A2 của tôi, vậy mà suốt một năm dài đi học tôi và chị như hai chiếc bóng đi
ngang qua nhau mà chưa hề chạm nhau bao giờ.
Sau nầy đọc được tập “Hành trình phù sa” của họa sĩ Lê
Triều Điển – chồng chị - Hồi ức in song ngữ Việt Anh, tôi biết anh chị gặp nhau
trong hoàn cảnh nào, mối lương duyên văn nghệ kỳ lạ ấy đã đưa hai tâm hồn yêu
nghệ thuật gắn bó với nhau trong suốt cuộc hành trình đi tìm cái đẹp của cuộc đời
và nghệ thuật. Hãy nghe họa sĩ Lê Triều Điển kể:
“...
Sau khi quán cà phê Đỡ Buồn hoạt động ổn định, tôi về Cần Thơ cùng với bạn bè văn
nghệ ngồi lại với nhau làm chương trình thực hiện tập san văn nghệ và hội quán
Góp Gió. Buổi gặp mặt đầu tiên mời rộng rãi anh em sáng tác thơ văn nhạc họa ở
các trường Đại học Cần Thơ, trường trung học Đoàn Thị Điểm, Phan Thanh Giản, các
bạn bè văn nghệ trong tỉnh và các tỉnh lân cận như Vĩnh Long, Long Xuyên, Châu Đốc.
Trong cuộc họp nầy, lần đầu tiên, tôi gặp nhà thơ Hồng Lĩnh, cô cùng nhóm nhà
thơ nữ cùng tham dự, nhiệt thành đóng góp ý kiến cho tập san văn nghệ và đề nghị
đặt tên cho hội quán là Tao Ngộ. Cuối cùng, chúng tôi tao ngộ kể thành gia đình
thơ họa, đám cưới chúng tôi một người bạn là thầy giáo, nhà văn phán một câu
vui: “Hai anh chị nầy lấy nhau chắc tương lai bần cùng, rách nát, một người làm
văn nghệ đã khổ, vậy mà cả hai thì càng khổ hơn.”
“...Năm
1971, tôi triển lãm cá nhân tại Trung tâm văn hóa Mỹ tại Cần Thơ. Năm 1973, triển
lãm cá nhân tại trường Phan Thanh Giản...Chúng tôi cùng nhau thành lập quán Góp
Gió để anh em văn nghệ có nơi họp mặt”. Chính tại nơi nầy anh đã mời ban nhạc Phạm Duy về trình
diễn một đêm ca nhạc. Tôi cười nói với anh Lê Triều Điển chắc anh không ngờ hôm
ban nhạc Phạm Duy về Cần Thơ trình diễn tôi cũng có mặt tham dự? Quán Góp Gió
chỉ là cái quán nhỏ cất trên sông Cái Khế ngay chợ Mít Nài, mặt trước và sau đều
lộng gió. Đây là nơi đầu tiên tôi nghe chính Phạm Duy hát bài Thà như giọt mưa
phổ từ bài thơ Lời buồn tình của Nguyễn Tất Nhiên, rồi các con của Phạm Duy lên
hát thêm một số ca khúc mới của ông. Sau nầy đọc hồi ký của Phạm Duy tôi mới biết
khoảng thời gian nầy ông đang tìm một hướng đi mới cho dòng nhạc của mình và đang
viết những ca khúc mới về tình yêu và tuổi hồng dành riêng cho các con ông hát để
thu hút lượng khán giả ái mộ nhạc của ông thêm đông đảo.
Họa sĩ Lê Triều Điển cũng là người mở quán Thằng Cuội ở đường
Pasteur(nay là đường Võ Thị Sáu). Nơi đây vào năm 1973 là nơi lần đầu tiên tôi
gặp nhà thơ Ngô Nguyên Nghiễm và nhà thơ Vũ Hữu Định khi nhà xuất bản Khai Phá
của anh Ngô Nguyên Nghiễm từ Sài Gòn về Cần Thơ tổ chức đêm ra mắt tập thơ Ngôi
nhà cho người trở về của Nguyễn Huy Chương. Nhắc lại chuyện nầy với anh, Lê Triều
Điều hóm hỉnh cười: Bọn văn nghệ tụi mình
như những dòng sông chảy các hướng khác nhau nhưng cuối cùng đều trôi về biển cả
thôi.
Dông dài một chút để thấy giữa tôi và vợ chồng họa sĩ Lê
Triều Điển – Hồng Lĩnh Phạm Thí Quý có một một mối dây gắn kết mơ hồ nào đó từ
hơn 50 năm về trước đến bây giờ mới thật sự nối kết biết và quen nhau. Cuộc đời
có nhiều sự kỳ lạ như thế âu cũng là có chút duyên tri ngộ trên con đường văn
chương nghệ thuật.
10-
SỰ HÒA
QUYỆN RẤT ĐỖI DỊU DÀNG GIỮA THI VÀ HỌA TRONG TÂM HỒN NGƯỜI NGHỆ SĨ:
Phạm Thị Quý yêu thơ và làm thơ từ thời trung học, tập thơ
đầu tiên của chị do Con Đuông xuất bản năm 1972 với tên Thơ Hồng Lĩnh. Sau 1975
chị vẫn tiếp tục làm thơ đi song hành với nét cọ của Lê Triều Điển. Tập thơ Những
chuyện thường ngày(Văn nghệ Cửu Long 1987), Vườn Đá(Nxb Trẻ 1995) và in chung
trong một số ấn phẩm khác. Theo lời ghi nhận của chị, từ tập thơ Những chuyện
thường ngày, Vườn đá chị dùng hẳn bút hiệu Phạm Thị Quý cho những sáng tác văn
chương còn bút danh Hồng Lĩnh dành riêng cho hội họa và nghệ thuật tượng hình.
Như vậy tác phẩm mới nhất của chị là tập Thơ Tranh Hồng Lĩnh Phạm Thị Quý in năm
2020 là sự kết hợp hài hòa giữa thi và họa. “Thi trung hữu họa” hay “Họa trung
hữu thi” nhỉ? Rất thú vị khi ta lần bước tìm hiểu tác phẩm nầy.
Tập Thơ Tranh Hồng Lĩnh Phạm Thị Quý phải nói là in thật
trang nhã, giấy đẹp, trình bày ấn tượng. Bên cạnh những bài thơ còn có nhiều bức
tranh thơ do chính tay Phạm Thi Quý vẽ và trình bày, tuy có hơi làm khó cho người
thưởng ngoạn một chút vì những lớp màu và câu thơ chồng lấn lên nhau nhưng những
ai yêu mến chị vẫn có thể nhẫn nại một chút để thưởng thức những bức tranh thơ đó
bằng tất cả tấm lòng của mình.
Trong tập thơ tranh tôi chú ý nhiều đến các bài thơ viết theo
thể hành của nhà thơ Phạm Thị Quý như các bài hành gieo hạt, túy tửu ca, nghệ sĩ
hành 1, nghệ sĩ hành 2, hành covid... Không phải vì những lời nhận xét ít nhiều
“bay bổng” của nhà nghiên cứu phê bình
Ngô Nguyên Nghiễm dành cho chị: “... Bài
Nghệ sĩ hành và bài Nghệ sĩ hành 2 đã ngẫu nhiên đưa tâm thức thi nhân hòa quyện
một cách nghiêm túc. Sáp nhập tư tưởng và thiên nhiên một cách tuyệt vời. Lúc nầy,
Phạm Thị Quý đích thực là một nhà thơ phiêu bồng, bay lượn trong một thế giới
quan thi ca đơn sắc. Không pha trộn cầu kỳ của những tia nắng nhạt mà chúng ta
khi phân tích khoa học đến bảy sắc cầu vồng...” mà tôi thấy chị viết với một
tâm hồn rất thực, đối kháng giữa khát vọng và hiện thực... đang bùng phát trong
tâm hồn người phụ nữ nhỏ bé nầy.
Trong bài thơ đầu
tiên mở đầu tác phẩm, bài thơ hành gieo hạt,...có những câu thơ thật cảm xúc làm
lay động lòng người vì nó xuất phát tận đáy lòng tác giả một cách đầy chân thực,
cho ta cảm nhận tâm trạng tác giả đang chơi vơi trước một thế giới hỗn mang đầy
biến động:
Còn
mảnh đất cuối cùng hề
Cũng
bị mất quyền sơ hữu
Cầm
hạt giống đã ngậm trên tay hề
Lòng
ta bỗng dưng bứt rứt
Biết
gieo vào đâu
Gieo
về phương Đông hề
Gieo
về phương Tây hề
Bóng
đen nuốt mất
Gieo
về phương Nam hề
Cỏ dại
mọc đầy
Ta làm
con chim
Ngậm
hạt bay khắp đất trời
Để rồi nỗi lòng ấy chất chứa một niềm đau vô hạn đành phải
nghêu ngao giữa đất trời vì không tìm được chỗ trú ngụ cho chính tâm hồn mình:
...Ừ
thôi đàng gieo vào lòng
Như
con trai ngậm cát hề
Chờ
mai sau hóa ngọc
Ta vỗ
ngực mà ca hề
Nghêu
ngao bài hành mất đất
Chỉ
còn bầu trời cao hề
Ta lại
ngậm hạt mà bay
Bài thơ mang âm hưởng bài Hồ Trường của Dương Bá Trác. Nếu
ta đọc bài Hồ Trường cảm xúc trào dâng bao nhiêu thì với bài hành gieo hạt của
Phạm Thị Quý ta càng đồng cảm với tâm trạng của chị bấy nhiêu.
Ở bài nghệ sĩ hành 1 ta tìm thấy một tâm hồn thật phóng
khoáng, tính chất của người nghệ sĩ muôn đời như thế, là cội nguồn cảm hứng vô
tận của thi ca và hội họa:
ghe trôi
trên sông hề
trăng
soi mênh mông hề
ta như
tráng sĩ hề không gươm
cây
bút vạch ngang trời
ta xé
toạc vầng tranh đề thơ trên đá
... ta
như con thuyền giữa nghìn con sóng
mặc
trời đất ngả nghiêng
ngẩng
mặt mà ca
nghệ
sỹ hành
nghệ
sỹ hành
*
Nhà thơ Phạm Thị Quý có cái khéo khi viết về một đề tài
diễn đạt tâm trạng bộc phát các vấn đề xã hột, ức chế về các vấn nạn, các mối
quan tâm nội tại lẫn ngoại cảnh chị thường dùng thể thơ tự do vì nó khơi đúng mạch
nguồn và lột tả hay nhất tình huống thực tại. Chẳng hạn chị làm thơ nói chuyện
với la hán nhưng thực ra là đang đối diện với chính mình và muốn truy vấn con
người trước bao nghịch cảnh nhiểu nhương xảy ra hằng ngày, một điều làm cho ta
cũng phải suy gẫm lại chính bản thân mình:
...
Sao các ông vẫn an nhiên
Che
mắt buông tay
Trước
sự giả trá tối tăm tội lỗi?
Các ông
đã trút hết cho đời bao nhiêu oan trái
Để
nhẹ nhàng vĩnh viễn hóa thân
Thành
tượng gỗ vô tri trong cõi vĩnh hằng:
(nói
chuyện với la hán)
Một thái độ điềm tĩnh sáng suốt khi khẳng định vai trò của
nghệ thuật:
...Nghệ
thuật
Không
là trò đùa
Để có
thể dối lừa
Đánh
đố trái tim
Mua
bán niềm tin
Bằng
sự thân thiện vô hồn
Của
sự phá phách
Và
coi thường
(nghệ
thuật)
Đối diện trước âm thanh của tiếng đàn hay âm thanh phát
ra từ cuộc sống:
Một
dây hề ta rung
Âm
thanh hề vang vọng
Tiếng
đất trời hề giọng trầm giọng bổng
Tiếng
tình yêu hề giọng đục giọng trong
Ta
rung lên hề
tiếng
khóc nỉ non...
(độc
huyền cầm)
Nỗi ray rứt và niềm tin trong cơn đại dịch covid tràn qua
thành phố:
qua đại
dịch nầy chúng ta sẽ yêu thương nhiều hơn
vẫn
nhận ra nhau dù khẩu trang che kín mặt
bạn
bè gặp nhau dẫu không ôm chầm lấy nhau
hay
nồng nàn đưa tay bắt
cứ
phải cách xa nhau hai mét
cho
nhau sự an toàn
trong
đại dịch nầy
(mùa
dịch)
*
Ngoài ra trong tập Thơ Tranh nầy tôi rất thích những bài
thơ lục bát của chị. Những bài hành và những bài thơ tự do thể hiện một tình cảm
tự do không ràng buộc bao nhiêu thì khi chị viết thơ lục bát nhẹ nhàng, lắng đọng
bấy nhiêu:
Người
đi khuất nẻo chân mây
Người
về bỗng nhớ giữa ngày nắng nghiêng
Trong
ta nỗi nhớ muộn phiền
Thoát
cơn huyễn mộng lại chìm hư không...
(Người
đi khuất nẻo chân mây)
Một cảm giác mơ hồ như đang tồn tại giữa giấc mơ và cuộc
sống thực thể:
dường
như có một mùi hương
dường
như có một con đường phía xa
dường
như ta vẫn là ta
ngồi
yên mới biết đâu là chân như...
(lục
bát rời)
Hoặc đôi lúc chị sử dụng lục bát ngắt dòng để làm mới câu
thơ cũng như làm mới tâm hồn mình có lúc muốn cằn khô:
Hỏi
em
Em đã
xa rồi
Hỏi
người
Người
đã rong chơi chốn nào
Hỏi
cây
Cành
lá xanh xao
Hỏi
chim
Chim
cũng bay vào bóng mây...
(hỏi)
*
Có một nhà báo nhận xét về thơ, tranh gốm của chị ẩn chứa
chất thiền trong đó, mỗi người đều có cách nhìn nhận khác nhau và tôi tôn trọng
điều đó:
“Sinh
ra trên mảnh đất “Chín rồng” đã phần nào tạo cho họa sĩ Hồng Lĩnh cái bản chất
dung dị, đời thường của người phụ nữ Nam Bộ. Thơ, tranh và gốm của bà phảng phất
đâu đó về một làng quê Việt Nam, quê hương sông nước hữu tình. Tác phẩm của bà đã
nhiều laahn “trình làng” cả trong và ngoài nước. Đặc biệt là sự chia sẻ của người
chồng – họa sĩ Lê Triều Điển(người có nhiều đóng góp trong mỹ thuật Phật giáo).
Gần đây, họa sĩ Hồng Lĩnh tập trung vẽ chữ nhiều hơn. Và, đó cũng là cđường mà bà
đã và đang tiến gần lại chính mình tìm về sự tĩnh lặng, sự cảm thức về kiếp sống
nhân sinh và cõi vĩnh hằng...”
(Chất
Thiền trong tranh của họa sĩ Hồng Lĩnh – Giang Phong)
Giữa thơ và tranh là một sự kết nối hòa quyện hết sức dịu
dàng trong con người nhà thơ - họa sĩ Hồng Lĩnh Phạm Thị Quý. Chị từng thố lộ: Tôi thường vẽ tranh trước rồi mới lấy thơ.
Những câu thơ “rút ruột” từ cảm xúc hột họa, ẩn nấp trong những mảng màu đậm-nhạt.
“Chữ” là một hình thức, là đường nét, như tranh nhưng ý nghĩa ẩn chứa theo một
cách diễn cảm. Đôi khi đơn giản, đang ngồi vô tư lự vậy thôi, mà một vài câu thơ
phát lộ diễn tả “minh họa” cho những điều mà hội họa chưa thể nói hết.
Chị cũng đã từng tổ chức triển lãm tranh thơ họa cho riêng
cá nhân hay kết hợp với nhiều nghệ sĩ khác, nên điều đó không làm bạn bè của chị
ngạc nhiên khi chị xuất bản tập Thơ tranh Hồng Lĩnh Phạm Thị Quý. Có người cho
rằng “Hội họa lên tiếng khi ngôn ngữ bất
lực” nhưng đối với tôi có lẽ chị quan niệm khác: Giữa thơ và họa tuy là hai mặt khác nhau của nghệ thuật nhưng nó lại là
một thể thống nhất và người nào làm chủ được điều đó cũng chính là làm chủ chính
bản thân mình.
Cái tình Hồng Lĩnh Phạm Thị Quý dành cho thơ ca, hội họa
và nghệ thuật tượng hình thì ai cũng biết và yêu mến, nhưng bạn bè ai cũng biết
chị còn có cái tình còn lớn hơn sâu rộng nhiều đối với chồng – họa sĩ Lê Triều Điển:
Anh vừa là người bạn đời, người thầy, người bạn tâm giao dìu dắt nhau đi suốt
con đường nghệ thuật nhất là những năm bao cấp đầy gian khó. Ta hãy lắng nghe nỗi
lòng của chị qua mấy câu thơ nặng lòng:
Em lặng lẽ
bên đời anh tất bật
Mặc cho vòng
quay cuộc sống cứ xoay vần
Lặng lẽ bên
đời vẫn một bóng em
Cho anh chút
hương hoa chút vầng trăng huyền ảo
Đêm tuyệt
vời sau ngày dài huyên náo
Lặng lẽ bên
anh, em ngọn gió dịu dàng
Hãy để tâm hồn người nghệ sĩ luôn thăng
hoa cùng thi ca, hội họa và nghệ thuật tượng nhé nhà thơ Phạm Thị Quý. Tôi mong
muốn những tác phẩm mới sẽ là cánh chim bay giữa bầu trời cao rộng dệt thành những
bông hoa xinh tươi đầy màu sắc trong vườn hoa nghệ thuật.
Sài Gòn, bên bờ Kênh Tẻ, tháng 3-2024
NGUYỄN AN BÌNH
________________
Tham
khảo:
1-
Hành trình phù sa của họa sĩ Lê Triều Điển
2-
Giao thoa giữa thơ và hội họa trong tranh của nghệ
sĩ Hồng Lĩnh-Quốc Đạt
3-
Nửa thế kỷ nương nhau qua nắng mưa – Mai Thụy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét