*NGUYỄN
AN BÌNH
Vũ Thụy Nhung là
bút danh của Mai Hoàng Dũng – một cái tên đẹp – nhưng không biết sao anh lại không dùng mà lấy bút
danh bằng cái tên đầy nữ tính dành cho con đường thi ca của mình. Vũ Thụy Nhung
sinh năm 1967 quê ở thôn Bàn An, xã Phổ Phong, huyện Đức phổ Quảng Ngãi. Anh
rời quê hương hành phương Nam gần 20 năm nay. Một lần tôi hỏi anh vì sao bỏ quê
vào Nam sinh sống, anh thật tình nói lúc ấy mình cùng Thanh Thảo thực hiện tờ
Sông Trà làm mất lòng một số người(xuất bản duy nhất 1 số và sau đó bị thu hồi)
nên phải bỏ quê mà đi. Vào Sài Gòn làm báo Giáo Dục Tp Hồ Chí Minh, sau 3 năm
gắn gó rồi cũng rời tờ báo ra đi, anh làm đủ thứ việc để mưu sinh giờ trụ lại ở
công ty Goldorient VN, phụ trách mảng chuyên trang thiết kế thời trang đến hiện
giờ. Cuộc sống riêng tư của Vũ Thụy Nhung cũng không mấy suông sẻ, hai lần có
vợ thì cũng hai lần nói tiếng chia tay. Anh làm thơ từ năm 14 tuổi, hai lần
đoạt giải thường của báo Thiếu Niên Tiền Phong. Thơ in rải rác trên các báo và
nhiều tuyển tập, nhưng in riêng thì “Ngồi Hát Vu Vơ” lại là tác phẩm đầu tay
của anh. Nói như thế để thấy rõ con đường đến với văn chương của anh nhiều gập
ghềnh không bằng phẳng và anh rất vui khi trình làng đứa con tinh thần đầu tiên
của mình.
Tôi quen và gặp nhà thơ Vũ Thụy Nhung nhiều
lần, khi thì giang hồ cùng Lưu Lãng Khách ở quận 7, khi thì ở Quận 4, thậm chí
chén thù chén tạc ở nhiều nơi từ Gò Vấp qua Bình Thạnh rồi về quận 4, tôi vẫn
thấy một Vũ Thụy Nhung là một kẻ làm thơ đầy khiêm cung, chân tình và năng nổ
cùng bè bạn văn chương. Mặc dù lưu lạc vào phương Nam khá lâu nhưng giọng Quảng
của anh không hề thay đổi và người nghe nhận ra ngay gốc gác của anh. Điều nầy
làm tôi nhớ đến bài thơ Hồi Hương Ngẫu Thư của Hạ Tri Chương thời Thịnh Đường:
Thiếu tiểu ly gia, lão đại hồi,
Hương âm vô cải, mấn mao tồi.
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức,
Tiếu vấn, khách tòng hà xứ lai?
Học giả Trần Trọng Kim đã
dịch:
Bé đi, già mới về nhà,
Tiếng quê vẫn thế, tóc
đà rụng thưa.
Trẻ con trong thấy hững
hờ,
Cười ồ, hỏi khách lại
từ phương nao.
“Ngồi Hát Vu Vơ” cũng là tên bài thơ mở
đầu của tập thơ nhỏ nầy. Bài thơ chỉ có 19 câu chia làm 3 đoạn nhỏ: Mỗi đoạn được
lập và nhấn mạnh hình ảnh “Ta chạy”: Từ việc chạy rong chơi lòng vòng, khi thì
làm “đôi chân ray rứt”, lúc lại “Rồi ta gục ngã”, rồi thì “Làm ta muốn khóc” đã
làm tác giả chợt nhận ra cuộc đời của mình “Ta chạy đi đâu cũng gặp ngày xưa”.
Ngày xưa đó là gì: “Mẹ ta không chồng. Ở vậy nuôi con. /Đưa em qua dòng sông tuổi
thơ. Lần đầu tiên ta mất ngủ. /Chỗ mẹ nằm xanh cỏ. Thôi ta đành ngồi xuống hát
vu vơ.” Như vậy “Mẹ”và “Em” là hai phạm trù, hai đối tượng in đậm khắc họa rõ
nét trong thơ của Vũ Thụy Nhung với những ám ảnh khôn nguôi.
Với mẹ là những vần thơ trăn trở về
hình ảnh thật chân phương nhưng nặng lòng thương nhớ. Anh viết thơ như trút từ
máu thịt con tim cho một một tình yêu mẫu tử. Tôi rất thích mấy câu thơ sau đây
của anh:
Qua sông...
Mẹ tôi quẩy gánh rau lang
Đi lúc con gà chưa đập cánh gáy
Đèn lồng trăng nghiêng rớt phía non tây
Phiên chợ nhạt nhòa tan khi trời sáng
Mẹ trở về kịp buổi làm đồng tính điểm
(Qua Sông)
Mẹ-xương-rồng-trước-gió
Chịu bao mùa bão giông
Chỉ một điều duy nhất
Mẹ mong ta thành người
Nước mắt lẫn nụ cười
Niềm vui đan đau khổ
Ta gục đầu trên mộ
Mặn chát cả mùa xuân
(Tưởng mẹ - Mùa xuân)
Tình yêu trong thơ Vũ Thụy Nhung cũng
thế, luôn ẩn chứa nhiều rủi ro mất mát, nó hình dung như một giải băng đen trải
trên con đường anh đi ngầm báo hiệu trước những bão giông trước mắt:
Em yêu dấu
“Bây giờ là tháng mấy”...
Làm sao biết khi anh đưa tay lên phía trái ngực mình
Đính vào giải băng đen
Ngày cũng quên tháng anh không còn nhớ
Chỉ có em trong tâm tưởng cuộc tình
Để rồi:
Anh như cội phượng già bật gốc trước mùa thu...
(Giải băng đen cuộc tình)
Ở giữa đất Sài Gòn, sớm chiều mưa nắng,
nỗi nhớ lặng lẽ đi về, có ai hiểu được tấm lòng đợi chờ của người phía chân mây
chăng?
Giờ đâu thể Sài Gòn hai mùa mưa nắng
Đâu thể “áo lụa vàng”em dắt nắng chung chiêng
Mà anh ngập nỗi nhớ
Vàng ánh đèn buốt gió mảnh trăng quê
...Về đi nhé em, về đi nhé
Bữa cơm chiều anh vẫn ngóng đợi em
(Chờ phía chân mây)
Đôi khi anh mượn tiếng đờn kìm trên
sông để giải bày tâm sự của mình:
Chiều rớt giọt đàn kìm
Nhẹ câu xề xuống giọng
Đò bao giờ cập bến
Ướt lòng em bên sông
(Viết vội thay cho duyên)
Tình yêu, tình quê đôi khi cũng hòa
quyện gắn bó làm một:
Trong những ngày khốn khó
Em không về sao Ch.
Câu thơ có nỗi đau
Anh tin rồi em hiểu
............
Còn thơm mùi em
Vòng tay còn hơi ấm
Em không về sao Ch.
Gió khua lòng xa ngái
Gửi thị trấn Đức Phổ&Ch. Sau 25
năm)
Tôi chợt nhớ đến Hà Huy Hoàng một người
bạn đồng hương với Vũ Thụy Nhung có nhận xét khá thú vị khi đọc bài “Trái tim
mùa hạ” của “gã”:
“Người
nổi tiếng có thơ hay là lẽ đương nhiên; nhưng người ít nổi tiếng không có nghĩa
là không có thơ hay đâu nhé. Theo tôi, “Trái tim mùa hạ cũng là một bài thơ
hay. Xin lỗi, tôi chỉ nói là bài thơ hay, chứ không bao giờ nói là bài thơ xuất
sắc trong nhiều bài thơ của gã đâu nhé. Hơi thơ không mới, nhưng hồn thơ và
tình thơ đôn hậu, chân thành làm nên thành công, cho bài thơ nầy chăng! Cá nhân
riêng tôi yêu thích bài thơ nầy, khi thơ được viết trong hoàn cảnh cảm xúc đặc
biệt gắn liền với tâm sự và nỗi niềm của chính mình, chắc chắn bài thơ sẽ có một
chút gì đó đọng lại xứng đáng để được gọi là thơ! Tại sao không...”
Tôi nghĩ chính vì tập thơ có tên “Ngồi
Hát Vu Vơ” nên đôi khi anh làm thơ anh không câu nệ tìm tựa cho nó làm gì, chỉ
ghi đơn giản là “Không Đề”, trong cả tập thơ có tới 5 bài thơ “Không Đề” có thể
làm cho người đọc thơ không vừa ý lắm nhưng theo tôi thế mà lại hay vì mỗi một
bài “Không Đề” lại bày tỏ, phơi phóng một tâm trạng khác nhau, đa đoan cùng con
chữ làm gì và hãy để người đọc tự cảm nhận có sao đâu:
Tôi còn tôi với chính tôi
Ngã nghiêng che khuất chỗ ngồi dáng xưa
Tôi còn sáng nắng chiều mưa
Còn đêm mộng mị thuở chưa biết người...
Xứ Quảng một dãi đất miền Trung gắn liền
với biển nên trong thơ Vũ Thụy Nhung biển cũng là một khúc đồng dao từ ngày xưa
đi qua cuộc đời anh:
Người đàn bà ở biển
Ngồi đếm thời gian qua mắt lưới
Ánh đèn chong nỗi nhớ vào đêm
Khát khao được làm vợ có chồng...
(Khúc đồng dao)
Ta trở về trước biển chiều nay
Nghe sóng nhắc tên người năm cũ
Nửa đời ta cánh chim di trú
Thì làm sao tình chẳng vụt bay
(Và Biển Bây Giờ)
Trong cuộc đời văn nghệ, tôi quen khá
nhiều nhà thơ xứ Quảng:Có người sống và làm việc ở quê nhà như Hồ Nghĩa Phương,
người xa xứ mưu sinh như Lưu Lãng khách, Ngã Du Tử và anh..., tôi nhận ra trong
thơ họ luôn có cái tình gắn bó với xứ Quảng thân yêu không bao giờ vơi cạn,
luôn nồng nàn thấm ngọt nước sông Trà, sông Vệ, gợi nhớ bến Tam Thương, đá La Hà,
sen hồng Liên Chiểu:
Ta về Quảng Ngãi tìm em
Mưa giăng tháng chạp đất mềm đường trơn
Mưa về biển trải thâm sơn
Mưa rong phố gió dỗi hờn nét môi
(Về Quảng Ngãi)
Em có về Quảng Ngãi với anh không
Khi mùa xuân còn ngập ngừng ngoài ngõ
Đất miền Trung đã qua mùa mưa gió
Nụ hoa vàng xòe nắng ngóng bên sông
......
Dẫu lòng ta không mổ chút cách chia
Anh hái tặng em đóa sen hồng Liên Chiểu
Và Quảng Ngãi Khi em về sẽ hiểu
Cõi lòng anh như ngọn sóng sông Trà
(Em có về Quảng Ngãi với anh không?)
Chính cái tình tha thiết, nỗi nhớ quê
qua lời nhắn gởi chân tình mà bài thơ Em có về Quảng Ngãi Với Anh Không? đã được
nhạc sĩ Từ Tấn Lực đồng cảm phổ thành ca khúc “Quảng Ngãi Ta Về” một thời đã được
nhiều người yêu thích và biết đến. Người nhạc sĩ ấy từng tâm sự: “Một chiều cuối tháng 4.2015, vì sắp nghỉ lễ nên đường phố
cũng trở nên vắng hơn ngày thường. Lang thang lướt báo trên mạng, bất chợt, như
một sự tình cờ hữu duyên, mắt tôi dừng lại khi gặp bài thơ “Em có về Quảng Ngãi
với anh không?” của tác giả thơ Vũ Thụy Nhung. Một cảm giác nhớ quê, nơi mình
chôn nhau cắt rốn, một ước nguyện muốn làm việc gì đó để tri ân quê hương và một
giây phút thăng hoa nên giai điệu chợt hình thành. Và thế là ca khúc Quảng Ngãi
ta về được ra đời.”Cái hữu duyên giữa thơ và nhạc là vậy nhưng có mấy ai tìm
được cái duyên như thế nhỉ?
Nhà thơ Vũ Thụy Nhung là người con xứ Quảng
xa quê và lấy Sài Gòn làm quê hương thứ hai của mình nên cái tình với mẹ, em và
quê hương miền biển ấy luôn ẩn hiện trong thơ anh mang nét hoài cảm vấn vương
say đắm: “Gió lay chao đảo liêu xiêu. Gã kia
ngớ ngẩn vẫn yêu bởi bùa...”. Trong đại dịch Cô-vit, với vai trò phụ trách
công tác mặt trận một phường Quận 4 anh tham gia công tác thiện nguyện rất nhiệt
tình. Đối với bạn bè văn chương: anh tham gia trang Dấu Chấm Than Quay Ngang, tổ
chức ra mắt sách cho thân hữu, tham gia ban biên tập tập san Sông Quê, tôi
thích anh vì những điều như thế nên cũng yêu thơ anh là vậy. R. Tagore có nhận
định: “Cũng như nụ cười và nước mắt, thực chất của thơ là phản ánh một cái gì
đó hoàn thiện từ bên trong”, tôi nghĩ thơ Vũ Thụy Nhung cũng bắt đầu như vậy và
hy vọng trong tương lai ta bắt gặp một Vũ Thụy Nhung có những bài thơ mới mẻ và
thấm sâu vào lòng người hơn.
Bên bờ Kênh Tẻ, tháng 10-2022
NGUYỄN AN BÌNH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét