BÀI VIẾT VỀ THI PHẨM ĐAN TÂM CỦA PHẠM NGỌC LƯ TRÊN TẬP SAN QUÁN VĂN SỐ 111-THÁNG 4-2025
PHẠM NGỌC LƯ - BÓNG TRĂNG CÔ QUẠNH TRÊN DẶM TRƯỜNG THIÊN LÝ

CẢM NHẬN VỀ TẬP THƠ ĐAN TÂM CỦA PHẠM NGỌC LƯ
NGUYỄN NGỌC LƯ, BÓNG TRĂNG CÔ QUẠNH TRÊN DẶM TRƯỜNG THIÊN LÝ
*NGUYỄN AN BÌNH
Cách đây hơn hai năm, nhà văn Trần Hoài Thư từ Mỹ gởi về tặng
tôi tập Thư Quán Bản Thảo số 99(lúc nầy
anh đã tự chuyển từ tạp chí sang dạng giai phẩm báo hiệu sự sắp đứt gãy của tờ
báo mà anh cùng nhà văn Phạm Văn Nhàn tốn bao tâm huyết gây dựng nên, tôi hiểu điều
đó nhưng không muốn bày tỏ sợ anh buồn) phát hành tháng 7-2022 với chủ đề: TƯỞNG
NHỚ BẰNG HỮU ĐÃ KHUẤT BÓNG gồm 17 nhà văn nhà thơ miền Nam trong số đó có Phạm
Ngọc Lư do nhà văn Phạm Văn Nhàn thực hiện. Vì số trang có hạn nên mỗi tác giả
chỉ điểm xuyết một vài nét chính và một, hai tác phẩm tiêu biểu mà thôi. Riêng với
nhà thơ Phạm Ngọc Lư, thật ra Ban Biên Tập Thư Quán Bản Thảo đã dành hẳn một số
TQBT viết về nhà thơ: THƯ QUÁN BẢN THẢO số 70, phát hành tháng 6-2016 chủ đề:
PHẠM NGỌC LƯ – BIÊN CƯƠNG HÀNH và tin mới đây nhất: Tập san Quán Văn do anh Nguyên
Minh chủ biên với dự định trong số Quán Văn 111 phát hành tháng 3-2025 có chủ đề:
Mùa Xuân và “Biên Cương Hành” với Phạm Ngọc Lư. Anh chủ biên Nguyên Minh biết tôi
có viết bài về Phạm Ngọc Lư đã lâu nhưng vẫn chưa hoàn thành nên anh gởi mail
cho tôi gởi gấp cho anh để kịp in trong số 111. Âu cũng là cái duyên và tôi được
thể hiện tình cảm của mình đối với nhà thơ tài hoa nhưng cuộc đời lại vô cùng lận
đận.
2- ĐAN TÂM, TIẾNG THƠ MỘT THỜI TAO LOẠN DÂU BỂ ĐỜI NGƯỜI:
a- Vài nét về nhà thơ Phạm Ngọc Lư:
Nhắc đến nhà thơ Phạm Ngọc
Lư, những người viết văn và yêu văn chương miền Nam chắc hẳn ít nhất một lần cũng
đọc được thơ văn của ông trên các báo miền Nam trước 1975 trong đó có tôi.
Nhà thơ Phạm Ngọc Lư, còn có bút
hiệu khác là Phạm Triều Nghi, sinh năm 1946 (Bính Tuất) ở Vinh Xuân, Huyện
Phú Vang, Tỉnh Thừa Thiên. Ngay từ thuở ấu thơ, Phạm Ngọc Lư đã được cha
và người bác truyền dạy chữ Hán.
Ông là cựu học sinh Quốc Học, sinh viên Viện Hán học
và Ðại học Văn Khoa Huế. Sau khi tốt nghiệp sư phạm Qui Nhơn, ông về dạy
học ở Tuy Hòa. Ông nhập ngũ khóa 5/68 Sĩ quan trừ bị Thủ
Ðức. Sau 9 tuần ở quân trường, ông lại được biệt phái trở về ngành
giáo dục. Bắt đầu viết năm học đệ tứ. Có bài trên các nguyệt san, tạp chí
Nghệ Thuật, Văn, Bách Khoa, Trình Bày, Khởi Hành, Ý Thức, Tuổi Ngọc…
Sau năm 1975, Phạm Ngọc Lư bỏ nghề dạy học. Từ đây, hoàn
cảnh, xã hội đã đẩy Phạm Ngọc Lư phiêu bạt nhiều nơi, có những lúc
cuộc sống, tâm hồn tuyệt vọng, tưởng chừng ông đã đoạn tuyệt với thi
ca. Nhưng rồi chính nó lại là điểm tựa, giúp ông vượt qua những đắng
cay, tủi nhục ấy. Và Ðà Nẵng mới là nơi hội tụ, điểm dừng chân
cuối cùng, ông qua đời vào ngày 26 tháng 5, 2017, thọ 72 tuổi sau một cơn
bạo bệnh.
Tác Phẩm đã xuất bản:
– ĐAN TÂM (Thư Ấn quán 2004)
– MÂY NỔI (Thư Ấn Quán 2007)
– SỢI KHÓI BAY VÒNG (Thư Ấn Quán 2016)
Ngay
khi nghe tin nhà thơ Phạm Ngọc Lư vừa mất, tôi có viết mấy câu thơ để tiễn đưa
anh, khi đọc lại vẫn còn thấy buồn và ngậm ngùi:
Ừ có lẽ lần nầy anh đi thật
Trút áo phong trần bỏ lại cố hương
Một thuở Biên Cương Hành mù khói lửa
Giữa cuộc đời nầy ai còn giữ được ĐAN TÂM?
b- Tiếng thơ thời tao loạn trải qua bao dâu bể đời
người:
Đan Tâm là tập thơ do
chính tác giả thực hiện tháng 01-2014, sau nhiều năm phong bút hay chỉ viết một hai
bài thơ những lúc tâm trạng cần giải tỏa ẩn ứchất
chứa trong lòng, tập thơ gồm những bài thơ tác giả viết trước 1975 đăng rải rác trên
một số báo, tạp chí văn chương lúc bấy giờ và một số bài thơ khác in dấu chân
lưu lạc của anh sau ngày đất nước hòa bình chỉ để gởi tặng những bằng hữu đọc cho vui,
sau đó đượcÝ Thức in lại tháng 04-2014, và
Thư Ấn Quán – Hoa Kỳ của nhà văn Trần Hoài Thư in
lại tháng 11-2004, tái bản lần
thứ nhất tháng 7-2007 tất cả cũng chỉ để tặng bạn
bè thân hữu. Trong lần in nầy
Thư Ấn Quán cũng nói rõ thêm có một số bài thơ trong tập nầy trước đây đã đăng
trên các tạp chí văn nghệ hoặc gởi cho các bạn bè đọc chơi nhưng khi thực hiện bản thảo để
in thành sách có thay đổi vài ba từ hoặc thêm bớt đôi ba câu với mong ước câu
thơ sẽ đẹp, bài thơ sẽ hàm xúc và hoàn chỉnh hơn, nói như thế người đọc ngầm hiểu
là các bài thơ trong tập Đan Tâm nầy là kết quả cuối cùng còn các bản thảo trước
không còn chính xác nữa.
Trong lời mở cho lần tái bản trên Thư Ấn Quán,
nhà văn Trần Hoài Thư và Phạm Văn Nhàn có nhận định: “…Công trình nầy như là tấm lòng rất trân trọng của nhóm chủ trương về
một người bạn văn chương cùng thời còn sống ở trong nước và cũng nói lên chủ
trương của chúng tôi đã theo đuổi hơn ba năm qua: xuất bản những tác phẩm của
những cây bút cũ miền Nam đang âm thầm làm việc, để chứng tỏ nền văn học Miền
Nam vẫn không bao giờ bị chết”.
Đọc lại tập thơ Đan Tâm là chùng ta đang từng bước tìm về những
ẩn khuất trong tâm hồn thơ Phạm Ngọc Lư, một thời mà nó gói gọn trong hai câu lục
bát như lời đề từ của tập thơ:
Ngàn sau hồn chữ rêu phong
Miên man thiên địa...tấc
lòng du du
Làm chúng ta
nhớ đến bài Thuật Hoài của Đặng Dung có mấy câu thơ sau:
Thế sự du du nại lão hà,
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca…
Phải chăng
hồn thơ của Phạm Ngọc Lư cũng lãng đãng khói sương mênh mông cùng đất trời chăng?
Mở đầu tập thơ là bài “Đất Trích”, ta cũng có thể xem đây
là bài thơ mở đầu cho cuộc đời đầy lận đận của Phạm Ngọc Lư khi rời trường sư
phạm đi dạy học: Người thầy giáo trê xứ
Huế ấy vào dạy học ở Củng Sơn, một nhiệm sở ít ai dám đến sống, làm việc,
heo hút, nằm dựa lưng vào dãy Trường Sơn cách Tuy Hòa khoảng ba mươi cây số:
Bốn phía rừng xanh màu nước độc
Đông tây nam bắc núi chận đường
Một lũng đất bằng khu chén
nhỏ
Trói chân ta vào chân Trường
Sơn
Thời đó, con đường từ Củng Sơn xuống Tuy Hòa chỉ là con đường độc đạo, đầy bom mìn.
Chiến tranh đang hồi ác liệt, thầy giáo trẻ Phạm Ngọc Lư chỉ còn biết gậm nhấm
nỗi buồn sau những buổi lên lớp:
Bó đời ta nửa manh chiếu rách
Đêm nằm mộng lớn nuốt mộng con
…..
Nằm chi đây, thân tàn đất trích
Chờ ai đây, đói lả chết mòn.
Bài “Bên sông” theo tôi
cũng là cái cớ, nguồn cơn khơi đi sự quạnh quẽ, một nơi xa hút bãi bờ không còn
níu giữ được mà thôi: “Với người xưa ấy/ Đã
khói sương che/ Chút tình xa ngái/ Đã cách bến bờ/ Biết lòng không đậu/ Trông
chi thuyền về…”.
Biên Cương Hành là bài thơ tiêu biểu trong tập thơ như một điểm
nhấn tuyệt vời. Tôi đã đọc bài thơ nầy in trên tạp chí Văn năm 1972 khi còn là
sinh viên sư phạm cùng với bài Cố Lý Hành. Bài thơ viết về chiến tranh ngày càng
trở nên khốc liệt hơn bao giờ hết ở miền Nam, bài thơ nhanh chóng trở thành nổi
tiếng được nhiều người yêu thích vì tính thời sự và sự nhân bản của nó. Rất nhiều
nhà phê bình nhận định rất hay về bài thơ nầy nên tôi chỉ nói về cảm xúc của riêng
mình, mỗi lần đọc lại bài thơ là mỗi lần tâm trạng tôi trở lại thời khắc ban đầu
ấy với những câu thơ không thể nào quên, mỗi câu thơ như một ngọn cuồng phong
quất vào da thịt rát bỏng, mỗi câu thơ như còn tanh mùi máu của chiến trường vừa
tàn lui:
Biên cương biên cương chào
biên cương
Chào núi cao rừng thẳm
nhiễu nhương
Máu đã nuôi rừng xanh
xanh ngắt
Núi chập chùng như dãy mồ
chôn
…..
Chiến trường ném binh như
vãi đậu
Đoàn quân ma bay khắp bốn
phương
Lớp lớp chồm lên đè bẹp núi
Núi mang cao điểm ngút
oan hờn
…..
Thôi em, còn chi ta mà đợi
Ngày
về: thân cạn máu khô xương
Ngày về: hôn lễ hay tang lễ
Hề
chi! buổi chinh chiến tang thương
Hề
chi! kiếp cây rừng đá núi
Nghìn
năm hồn quanh quẩn biên cương…
Hình ảnh về đứa con mới sinh đã mất cũng là một nỗi
đau quá lớn mà Phạm Ngọc Lư cố nén vào lòng kéo dài suốt một thời gian dài:
Hồn nhiên bao tiếng khóc cười
Tan vào lòng đất thắm tưới linh hồn
Hòa vào màu cỏ xanh non
Bay vào mây khói chiều hôm quê nhà
…..
Nằm im giữa trái tim ta:
Nhỏ nhoi hạt bụi xưa là Các Khuê!
(Nhỏ nhoi hạt bụi)
Nỗi cô quạnh đến rợn người khi ngày về làng
cũ mới thấy hết sự bẽ bang làm tan nát lòng người:
Có biết ta về không cố lý?
Mười năm chưa gặp mặt xóm làng
Sao phên giậu nghiêng đầu câm nín
Rơm rạ làm thinh chẳng hỏi
han
Cổng khép rào vây vườn cỏ dại
Tường xiêu mái rách bóng nhà hoang
…..
Ai trong muôn dặm không về nữa
Cố lý mười năm mộng bẽ bàng
Cố lý mười năm ngày trở lại
Như ngày Lưu Nguyễn xuống trần gian!
(Cố lý hành)
Trong bài Làng cũ, tâm trạng càng thêm lạc lõng chơ vư biết chừng
nào, Có ai hiểu được nỗi lòng của nhà thơ trước cảnh đổi thay dâu bể không nhỉ?
Gió quét Tam Giang thuyền
lụy sóng
Mây xô Bạch Mã núi ôm trời
Tần ngần ngắm lại lòng ao
cũ
Xào xạc hồn quê lá trúc rơi…..
Có lẽ do từ nhỏ được học chữ Hán và tiếp cận rất
sớm với văn học cổ nên ảnh hưởng khá lớn đến quá trình sáng tác thơ văn của
Phạm Ngọc Lư, chúng ta dễ nhận ra những từ Hán Việt trong các bài như Thuyền
quyên, Thiết mã ca, Túy hoài, Lưu biệt, Trường dạ khúc, Tuy Hòa tái ngộ… chính điều đó
làm thơ ông như lạc giữa mộng và thực, lúc mơ hồ sương khói, lúc bang hoàng
chua xót, lúc như tiếng vạc lẻ loi trong đêm trường, nỗi cô đơn đến tận cùng.
Khi
gởi gầm lòng mình cùng Thúy Kiều, phải
chăng tác giả muốn nói với chính mình:
Mười lăm năm nhớ không Kiều
Phong sương vung vãi muối tiêu khắp đầu
Nát đời anh giữa bể dâu
Nón rơm áo cỏ mày râu ngậm hờn
(Tái ngộ Thúy Kiều)
Nỗi ngậm ngùi về một kiếp người:
nhìn ra sông.. sông bồi hồi
ba mươi năm nữa… ai ngồi nơi đây?
(Ba Mươi Năm)
Nếu
chúng ta chịu khó đọc thêm những lời tâm
sự của Phạm Ngọc Lư gởi bạn bè, chúng ta sẽ hiểu thêm được tình cảm nỗi lòng của
nhà thơ gởi gấm qua từng chữ từng câu thơ cua anh hơn: - Trong một lá thư của Phạm Ngọc Lư gởi cho nhà thơ Lãm Thúy: “...11 giờ đêm hôm kia, mở computer
sau ba bốn ngày bỏ lửng, trong năm bảy cái mail linh tinh có thư Thúy, lòng
khấp khởi mừng, nhưng rồi bất ngờ… thư anh, nhận từ hồi giáp Tết / bởi lòng
buồn chẳng muốn hồi âm / từ mất mẹ thấy đời cũng hết / não nề trong cuộc sống
lặng thầm !…
Buồn và buồn. Miên man. Chơi vơi.
Một giờ sáng rồi 2 giờ sáng vẫn không chợp mắt được, bốn bề thinh lặng, chốc
chốc gióng lên một hồi gió bấc vun vút ngang mái nhà thấp ngỡ như tiếng rượt
đuổi của Thinh Không. Lồm cồm ngồi dậy, thắp đèn, không hiểu sao lại bước ra
bàn thờ đốt nhang, lặng người nhìn ảnh cha mẹ rồi nhẩm đọc những câu thơ trên
bài vị của Phạm Các Khuê (đứa con gái đầu lòng mất khi chưa đầy một tuổi).”
“Tôi là đứa con bất hiếu, trôi dạt
cùng bể dâu lịch sử, hành phương Nam cầu thực, ròng rã 12 năm bỏ mẹ một mình ở
quê làng nhờ các chị chăm sóc. 12 năm đục ngầu 12 bến nước, năm 1994, tôi mới
quy hồi cố xứ với tâm trạng ê chề (đã bày tỏ trong bài hành Trở về Phá Tam
Giang) nhưng rồi đành chọn Đà Nẵng ngụ cư, nghĩa là vẫn không thể gần gũi
sớm hôm bên mẹ già và quê cũ.
Lòng tôi cứ bàng hoàng xót xa.
Không thể không nghĩ đến đời mình với những mất mát tan nát triền miên, 37 năm
qua tôi vẫn lặng lẽ khóc mình, những tiếng khóc vô thanh vô lệ, vẫn tôi
và nước mắt dìu nhau / bơi qua Bể Khổ muôn màu nhấp nhô để “đề thơ
trước mộ” và hình dung đến ngày về lại Nghìn Trùng.
Cứ nghĩ đến khôn cầm giọt lệ
Nói thêm đau, không nói cũng buồn
Nhưng “nỗi đau xót có
người bày tỏ / khi nói ra lòng sẽ nguôi ngoai”.
Từ đó, rất xúc động khi Thúy bất
ngờ “gặp” tôi để bày tỏ nỗi buồn của mình. Dù xa xôi muôn dặm, dù chưa một lần
gặp mặt nhưng chắc chắn rồi, ta vẫn hiểu lòng nhau.
Trong một bài viết về Phạm
Ngọc Lư, nhà văn Nguyễn Lệ Uyên cũng cho biết thấy rõ tâm trạng đầy bất trắc của
nhà thơ: “ Cách đây 15 năm, từ Đà Nẵng Lư gửi thư cho tôi, có đoạn: “Theo
tôi, nhà thơ=lãng mạn+cô đơn+bi thương+kiêu hãnh, trong đó “cô đơn” là thuộc
tính bi thảm nhất. Chính trong cái cô đơn cùng cực, tôi thấy mình chết, ra đi
và đã viết:
Tâm hồn bật một tiếng
kêu
Vỡ ra lênh láng giữa
chiều tang thương
Âm ba đồng vọng mười
phương
Có ai thiên cổ đoạn
trường hồi âm?
Tay ai nâng nhẹ phù
thân?
Dìu tôi đi giữa phù trầm
khổ đau
Tôi và nước mắt dìu nhau
Bơi qua bể khổ muôn màu
nhấp nhô
Tôi và cát bụi ngu ngơ
Bay quanh trời đất đợi
giờ tương sinh” (thư riêng đề ngày
27.10.2002).
3-NHỮNG NHẬN XÉT
VỀ THƠ PHẠM NGỌC LƯ:
Tôi có một thói quen khi viết cảm nhận về một
nhà thơ, nhà văn mình quan tâm hay yêu thích, ngoài việc chọn đọc các tác phẩm
tiêu biểu của họ, ngoài ra tôi còn đọc thêm các bài viết của các tác giả khác
viết về họ và rất thích thú khi đọc được những ý tưởng hay sâu sắc mà mình chưa
chạm tới được và rút ra được những vết son trong hành trình đi tìm cái đẹp
trong văn chương. Xin được trích dẫn một số đoạn văn mà tôi tâm đắc để bạn đọc
cùng thưởng lãm nhé:
Nhà thơ Phan Xuân Sinh ví anh như một kẻ sĩ sinh bất phùng
thời:
“…Những ngày ở Đà Nẵng, chúng tôi hay rủ nhau đi uống cà phê,
chính những lúc nầy tôi hiểu thêm về con người của anh. Anh là một người sống
lặng lẽ, thâm trầm. Ít giao thiệp với ai, nhưng khi gặp anh em văn nghệ anh rất
hết lòng với anh em. Tôi biết gia đình anh đang gặp khó khăn nhưng anh không bao
giờ tỏ bày cùng ai, ôm trong lòng những u uất cho nên trông thấy anh càng tôi
nghiệp, với vóc dáng ốm yếu, xanh xao, càng tang thương hơn. Tôi nói với anh
bây giờ mình lớn tuổi gặp những bất trắc mình nên lướt qua đừng để trong lòng.
Vì mang trong người thứ nầy mình sẽ suy sụp ngay, gượng dậy không nổi. Nói thì
nói vậy chứ làm sao dễ dàng thoát được, nó cứ bám sát, không làm sao dứt ra
được.
Thơ
phảng phất thơ Đường như Vũ Hoàng Chương, hình như suốt cuộc đời thơ của chàng
họ Phạm chìm đắm trong khói sương Đường thi, ngay cả tựa nhiều bài trong tập
thơ Đan Tâm anh dùng nhiều từ Hán Việt: Biên cương hành, Cố lý hành, Tái ngộ
Thúy Kiều, Thuyền Quyên, Thiết mã ca, Lưu biệt, Ngũ thập thất tự tình, Thu niệm,
Phù dung...
Mơ màng một bóng hoàng oanh
Bay qua vườn mộng
hóa thành hoàng uyên
Bồng bềnh một dáng thuyền quyên
Rong chơi hoàng hạc từ thiên cổ về
Một trời mây mỏi khói mê
Tương tư bóng hạc nảo nề lầu hoang
Có ai thoát áo thu vàng
Bay lên tơ lụa mơ màng bóng hoa
(Chim mộng)”
Nhà văn Cung Tích Biền khi viết về Phạm Ngọc Lư có nhận xét: “…Phạm Ngọc Lư khá điềm
tĩnh trong hành trình sáng tác của mình, tuy sâu trong tâm khảm, từ biển rộng
tâm linh, Lư vẫn cháy bỏng với những khắc khoải, tư duy. Trong bao năm Lư không
chạy theo những trào lưu, trường phái, những hào nhoáng ồn ào của thị hiếu.
Không làm con thiêu thân để chết non, tàn mùa, theo những cám dỗ tức thời. Thơ
Lư hình thức là mẫu mực, cổ điển. Vì ta cứ đủng đỉnh cái Riêng mình. Cái bình
cổ sống rất lâu. Chính ở điểm này Lư thành công. Nói được rất nhiều trong biểu
hiện điều Muốn Nói. Không cầu kỳ. Không đánh bóng ồn ào mặt ngoài bởi ngôn ngữ
rỗng.(Nghĩ về nhà thơ Phạm Ngọc Lư)”.
Còn với KHUẤT ĐẨU, nhà văn hình như thấu
hiểu nỗi đau giấu kín trong lòng của nhà thơ khi trào ra trên từng con chữ còn rướm
máu:
“…Chính vì thương ngày xưa không tuổi/ ôm mối tình không tên, nhờ mối tình với
Nàng Thơ ấy mà anh đã sống sót qua những năm tháng ở Củng Sơn, ở phương Nam
nắng khổ mưa đau. Nàng Thơ không còn lửng thửng giữa thành cũ rêu phong,
không phơi tấm thân ngà ngọc trên sông Hương mà cùng anh mươi lít gạo trộn vài
cân muối/ nấu với tình em ăn vẫn ngon. Nàng cùng anh xé toạc đất tanh mùi máu
mà kêu thét lên ở biên cương, rồi cùng anh xuôi Nam lại lộn về cố lý, qua phá
Tam Giang rồi dừng lại trên bến nước thứ mười ba là sông Hàn. Nhờ có nàng mà
mộng con mộng lớn dẫu tan tành thì cũng hãy còn bút mực đan thanh tươi màu. Bút
mực ấy chấm vào tấm lòng son nên dù mai sau thơ anh có nằm chết trần truồng thì
tôi vẫn tin, trong trái tim của bạn bè vẫn còn nhỏ nhoi hạt bụi tên là Đan Tâm.(Đọc
Đan Tâm của Phạm Ngọc Lư)”
Còn Du Tử Lê thì nhấn nha chậm rãi
qua những bài viết đăng nhiều kỳ trên trang web văn học của riêng ông: “…Phạm Ngọc Lư
xuất hiện trên thi đàn rất sớm. Từ năm 17 tuổi (1963) ông bắt đầu tập viết và
vài ba năm sau đó đã có thơ và truyện đăng trên các báo, nguyệt san: Nghệ Thuật,
Văn, Khởi Hành, Bách Khoa, Ý Thức, Tuổi Ngọc… Thơ Phạm Ngọc Lư mang đậm chất cổ
thi và sử dụng nhiều điển tích cũng như từ ngữ Hán Việt. Do vậy, thơ ông cổ kính
sang trọng, nhưng khi đọc lên tưởng chừng rất dễ vỡ…
“…Quả, khi đọc, nghiên cứu Phạm Ngọc Lư, đôi khi ta bắt gặp một vài thủ pháp
nghệ thuật sử dụng hình ảnh, câu từ khá tương đồng với cố thi sĩ Vũ Hoàng
Chương. Bởi, có lẽ hai thi sĩ đều có điểm chung, học chữ Hán và có nền tảng cổ
văn khá vững, ngay từ thuở thiếu thời chăng? Tuy là vậy, nhưng tư tưởng, hồn
vía trong thơ lại có những khúc rẽ rất khác nhau.…Sinh ra và lớn lên trong giai
đoạn đất nước không có một ngày bình yên, do vậy Phạm Ngọc Lư thấm được nỗi đau
và sự mất mát trong chiến tranh và nỗi thống khổ sau cuộc chiến. Là nhà giáo,
không phải cầm súng nơi chiến trường, nhưng với ngòi bút của mình, người thi sĩ
trẻ ấy đã bóc trần sự thật của chiến tranh. Có thể nói, Biên Cương Hành là một
trong những bài thơ hay nhất viết về chiến tranh, không chỉ của thi ca miền
Nam, mà cho cả nền thi ca đất Việt. Đa số những bài viết về đề tài chiến tranh,
hay cổ động chiến tranh thường có giá trị nhất thời. Nhưng Biên Cương Hành lại
có sức sống dẻo dai và sự lan tỏa mạnh mẽ, bởi ngoài sự thật tàn khốc của chiến
tranh, nó còn chứa đựng giá trị nghệ thuật cao…”. (Từ thơ thể loại “Hành”, tới thi ca một thời của Phạm Ngọc Lư – Du Tử Lê)
Nhận xét của nhà phê bình Đỗ Trường(Đức) có tính khái quát hơn: “… Thông
thường, một nhà thơ tài năng, dù là cây cao bóng cả, có nhiều bài
thơ hay nhưng cũng không thiếu những bài thơ dở. Đặc biệt trong tập Đan
Tâm của Phạm Ngọc Lư, đã đọc nhiều lần, quả thật, tôi không tìm ra
bài thơ nào dở hoặc quá dở. Có lẽ, do tính cẩn thận và ông viết
rất ít, nên chưng lọc được tinh cốt chăng?.
Và
cũng như nhà thơ Vũ Hoàng Chương do dùng nhiều từ cổ Hán Việt cũng như
điển tích, cho nên thơ của Phạm Ngọc Lư thường khó nhận được sự chia
xẻ, đồng cảm trong giới bình dân.
Nói
thơ ông kén người đọc là như vậy.” (Phạm Ngọc Lư, người vẫn giữ lửa cho nền văn học miền Nam)
Riêng nhà thơ Hoàng Xuân Sơn(Canada) khi viết về Biên Cương Hành của Phạm
Ngọc Lư đã khắc khoải một tâm trạng đớn đau khôn nguôi – một dư chấn tâm lý - mà
thế hệ thanh niên miền Nam chúng tôi thời đó đã từng trải qua: “…Tôi đã cùng
tác giả Hành Biên Cương đến vùng biên cương cuối cùng, nhưng vẫn không có một
địa danh cụ thể nào trong suốt hành trình này. Với riêng tôi Biên Cương trong
Hành Biên cương phải chăng là những địa danh lưu dấu tích suốt bốn mươi năm
tiếng súng ngưng vẫn còn đó. Một dòng Bến Hải “Cả dòng sông là một nghĩa trang
trôi”, Một thành cổ Quảng Trị, một Đại lộ kinh hoàng, Một Khe Sanh, một Hướng
Hóa, một đường 9 Nam Lào, một lộ máu số 7, một ngôi mộ 3000 người ở An Lộc Bình
Long, hay tuyến lửa 1C sắt còn bị nung chảy bởi bom đạn…”
Ðiển hình, nhà văn Nguyễn Lệ Uyên, trong
bài “Ðọc thơ Phạm Ngọc Lư / Thơ như một
định mệnh” ghi nhận:
“…Với tôi, Lư là người bạn thân thiết từ cuối thập niên 60
và chữ nghĩa của Lư là ‘người tình’ đích thực của tôi kể từ khi tôi đọc một
loạt truyện ngắn của anh đăng trên Văn, Bách Khoa… Những nhân vật trong truyện
đã mang không khí chiến tranh đi ngao du cùng trời cuối đất, khi thì dưới một
mái trường quê, khi thì một làng ven biển, lúc thì một thị trấn nhỏ miền núi,
bị cô lập như ‘đất trích’… Trong suốt thời gian nầy tôi chưa hề thấy anh làm thơ
như những người cầm bút khác cùng thời.
“Mãi tới cuối năm 1972, tôi từ Sài Gòn về từ giã cha mẹ và
các em để ‘xếp bút nghiên…’, buổi tối ngồi uống chén rượu lạt cùng với các bạn
văn trước lúc chia tay, giữa chếnh choáng men say thế sự, giọng Lư hốt nhiên vang
lên, nấc nghẹn:
“Biên
cương biên cương chào biên cương
Chào núi rừng thăm thẳm nhiễu nhương
…
“Khu chiến ngày tràn lan lửa dậy
Ðá Vọng Phu mọc khắp biên cương
…
“Ðây biên cương ghê thay biên cương
Tử khí bốc lên dày như sương…
(Biên Cương Hành)
Nhà thơ NHƯ KHÔNG lại so sánh
để làm nổi bật sự khác biệt thơ Phạm Ngọc Lư : “…Khác với một Nguyễn Bắc Sơn tưng tửng
trong chiến trận,Phạm sững sờ với sự khốc liệt và quy mô của chiến tranh,anh
không thuộc tạng người “ sống “ được với những chết chóc và đổ nát, với đau
thương và sự hủy hoại mà chiến tranh đem lại.Tâm hồn và cả thể tạng mong manh
của anh cùng với kiến thức Hán học mà anh thừa hưởng từ khi còn bé với gia đình
không dung nạp nổi những thứ đó. Anh là con người của Đường thi, của Tỳ Bà
Hành,của Tương Tiến Tửu, của tiếng chuông chùa Hàn San trong " Phong Kiều
Dạ Bạc " của nhà thơ Trương Kế. Ở Phạm Ngọc Lư là cái khuôn mẫu khiêm cung
của người quân tử, của những khuôn vàng thước ngọc từ Khổng và Lão, từ những
câu thơ hụt hẫng của Thôi Hiệu.Và anh choáng váng với cái môi trường mà anh
buộc phải bước chân vào:
“ Biên cương biên cương chào biên cương
Chào núi cao rừng thẳm nhiễu nhương
Máu đã nuôi rừng xanh xanh ngắt
Núi chập chùng như những mồ chôn
…..
Biên cương biên cương đi biền biệt
Chưa hết thanh xuân đã cùng đường “
Ai cũng có cái nhìn riêng
về thơ của Phạm Ngọc Lư và ta tôn trọng họ dù có thể những nhận định ấy chưa thật
sự làm chúng ta hài lòng hay thích thú nhưng có hề gì. Trong vườn hoa bao giờ cũng
có các loài hoa khác nhau, màu sắc hương thơm cũng khác nhau, thế thôi.
4- THAY LỜI KẾT:
Tôi còn nhớ có một thời gian trước
khi đi xa, nhà thơ Phạm Ngọc Lư có tham gia sinh hoạt trên fb, lúc nầy anh chưa
ngã bệnh và tôi kết nối được với anh cũng trong giai đoạn nầy. Tôi có gởi tặng
anh hai tập thơ và anh hứa sẽ đọc kỷ. Trên fb của anh ngày đó gần như không đăng
bài mới, thỉnh thoảng anh đưa lên một bài thơ cũ trong hai tập thơ Đan Tâm hay
Mây Nổi mà thôi, có lẽ để cho vui và có dịp gặp được bạn bè văn chương. Một thời
gian sau qua thông tin bạn bè văn nghệ tôi biết anh bệnh và đang được điều trị.
Có lần một bạn thơ khá trẻ nói với anh đã đem tập thơ Đan Tâm về Hà Nội anh trả
lời một cách hóm hỉnh: Vậy là lần đầu tiên Đan Tâm vượt vĩ tuyến 17 ra Bắc rồi.
Tôi nghĩ anh vui vì điều đó.
Suốt hành trinh trên dòng sông thơ đầy
thác ghềnh, anh sáng tác không nhiều và chưa từng tự mình đứng ra in thành tác phẩm riêng, tất cả đều do bạn bè yêu
quí anh lo liệu nhưng không nhất thiết phải in hay sáng tác nhiều mới được nhiều
người biết, chỉ cần một bài thơ như “Biên Cương Hành” cũng đưa tên anh vào văn
học sử nước nhà rồi. Đối với tôi thơ anh luôn đứng ở một cõi trời riêng mãi mãi
là một “BÓNG TRĂNG CÔ QUẠNH TRÊN DẶM TRƯỜNG THIÊN
LÝ”.
Sài Gòn, bên bờ Kênh Tẻ, cuối tháng 2-2025
NGUYỄN AN BÌNH
_______________________
Tham khảo:
1- Thư Quán Bản Thảo số 70 – chủ đề Phạm Ngọc Lư
2= Phạm Ngọc Lư, một đời tài hoa của Phạm Cao Hoàng
3- Phạm Ngọc Lư, người vẫn giữ lửa cho nền văn học
miền Nam – Đỗ Trường
4- Nghĩ về nhà thơ Phạm Ngọc Lư – Cung Tích Biền
5- Đọc Đan Tâm của Phạm Ngọc Lư – Khuất Đẩu
6- Nhớ Phạm Ngọc Lư – Nguyễn Lệ uyên
7- Phạm Ngọc Lư, cây sậy phương đông – Như Không
8- Từ thơ thể loại “Hành”, tới thi ca một
thời của Phạm Ngọc Lư – Du Tử Lê
9- Phạm Ngọc Lư, người đi trước vận mênh – Phan Xuân Sinh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét