Chủ Nhật, 25 tháng 5, 2025

CA KHÚC ĐÊM BẠC LIÊU

RẤT VUI CÓ MẶT TRONG TẬP SÁCH THƠ PHỔ NHẠC DO HỘI NHÀ VĂN TP. HỒ CHÍ MINH THỰC HIỆN NĂM 2025

CA KHÚC ĐÊM BẠC LIÊU

NHẠC SĨ NGUYỄN PHÚ YÊN PHỔ TỪ BÀI THƠ "ĐÊM BẠC LIÊU" NGHE ĐỜN CA TÀI TỬ" CỦA NGUYỄN ABÌNH 








T R Ê N Đ Ồ I S Ư Ơ N G

TRUYỆN NGẮN ĐƯỢC CHỌN ĐĂNG TRONG TUYỂN TẬP TRUYỆN NGẮN 2 DO NXB NGÔN NGỮ - HOA KỲ THỰC HIỆN VÀ PHÁT HÀNH

T R Ê N   Đ Ồ I   S Ư Ơ N G

Từ trang 350 đến trang 359. Mời các bạn tìm đọc cho vui.




Thứ Ba, 20 tháng 5, 2025

Ể TỔNG KẾT TRAO GIẢI CUỘC THI THƠ


 LỂ TỔNG KẾT TRAO GIẢI CUỘC THI THƠ

NIỀM VUI NHỎ TRONG CUỘC THI THƠ MỪNG 50 NĂM NON SÔNG LIỀN MỘT DẢI DO HỘI NHÀ VĂN CẦN THƠ TỔ CHỨC NGÀY 19/05/2025









Thứ Năm, 15 tháng 5, 2025

ITHÁNG NĂM NHỚ MÙA HOA PHƯỢNG ĐỎ

CA KHÚC PHỔ THƠ MỚI
ITHÁNG NĂM NHỚ MÙA HOA PHƯỢNG ĐỎ
THƠ NGUYỄN AN BÌNH, PHỔ THÀNH CA KHÚC NHẠC SĨ PHAN BÁ KIỆT.
CÁM ƠN ÔNG ANH NHẠC SĨ Ở QUÊ NHÀ RẤT NHIỀU.




Thứ Tư, 14 tháng 5, 2025

NGÀY NON SÔNG LIỀN MỘT DẢI

 CA KHÚC PHỔ THƠ MỚI

NGÀY NON SÔNG LIỀN MỘT DẢI

THƠ NGUYỄN AN BÌNH, PHỔ THÀNH CA KHÚC NHẠC SĨ KIỀU TẤN.

CÁM ƠN NGƯỜI NHẠC SĨ TÀI HOA RẤT NHIỀU.





Thứ Hai, 5 tháng 5, 2025

Thứ Bảy, 3 tháng 5, 2025

PHÁT BIỂU CỦA NGUYỄN AN BÌNH CẢM NHẬN VỀ THƠ PHẠM NGỌC LƯ

 PHÁT BIỂU CỦA NGUYỄN AN BÌNH  CẢM NHẬN VỀ THƠ PHẠM NGỌC LƯ

TRONG BUỔI RA MẮT TẬP SAN QUÁN VĂN  SỐ 111, THÁNG 4-2025.





PHẠM NGỌC LƯ - BÓNG TRĂNG CÔ QUẠNH TRÊN DẶM TRƯỜNG THIÊN LÝ

 BÀI VIẾT VỀ THI PHẨM ĐAN TÂM CỦA PHẠM NGỌC LƯ TRÊN TẬP SAN QUÁN VĂN SỐ 111-THÁNG 4-2025

PHẠM NGỌC LƯ - BÓNG TRĂNG CÔ QUẠNH TRÊN DẶM TRƯỜNG THIÊN LÝ




 






















CẢM NHẬN VỀ TẬP THƠ ĐAN TÂM CỦA PHẠM NGỌC LƯ

 

NGUYỄN NGỌC LƯ, BÓNG TRĂNG CÔ QUẠNH TRÊN DẶM TRƯỜNG THIÊN LÝ

                                                                           *NGUYỄN AN BÌNH

 

  1-DẪN NHẬP

Cách đây hơn hai năm, nhà văn Trần Hoài Thư từ Mỹ gởi về tặng tôi tập Thư Quán Bản Thảo số 99(lúc nầy anh đã tự chuyển từ tạp chí sang dạng giai phẩm báo hiệu sự sắp đứt gãy của tờ báo mà anh cùng nhà văn Phạm Văn Nhàn tốn bao tâm huyết gây dựng nên, tôi hiểu điều đó nhưng không muốn bày tỏ sợ anh buồn) phát hành tháng 7-2022 với chủ đề: TƯỞNG NHỚ BẰNG HỮU ĐÃ KHUẤT BÓNG gồm 17 nhà văn nhà thơ miền Nam trong số đó có Phạm Ngọc Lư do nhà văn Phạm Văn Nhàn thực hiện. Vì số trang có hạn nên mỗi tác giả chỉ điểm xuyết một vài nét chính và một, hai tác phẩm tiêu biểu mà thôi. Riêng với nhà thơ Phạm Ngọc Lư, thật ra Ban Biên Tập Thư Quán Bản Thảo đã dành hẳn một số TQBT viết về nhà thơ: THƯ QUÁN BẢN THẢO số 70, phát hành tháng 6-2016 chủ đề: PHẠM NGỌC LƯ – BIÊN CƯƠNG HÀNH và tin mới đây nhất: Tập san Quán Văn do anh Nguyên Minh chủ biên với dự định trong số Quán Văn 111 phát hành tháng 3-2025 có chủ đề: Mùa Xuân và “Biên Cương Hành” với Phạm Ngọc Lư. Anh chủ biên Nguyên Minh biết tôi có viết bài về Phạm Ngọc Lư đã lâu nhưng vẫn chưa hoàn thành nên anh gởi mail cho tôi gởi gấp cho anh để kịp in trong số 111. Âu cũng là cái duyên và tôi được thể hiện tình cảm của mình đối với nhà thơ tài hoa nhưng cuộc đời lại vô cùng lận đận.

 

2-    ĐAN TÂM, TIẾNG THƠ MỘT THỜI TAO LOẠN DÂU BỂ ĐỜI NGƯỜI:

a-     Vài nét về nhà thơ Phạm Ngọc Lư:

Nhắc đến nhà thơ Phạm Ngọc Lư, những người viết văn và yêu văn chương miền Nam chắc hẳn ít nhất một lần cũng đọc được thơ văn của ông trên các báo miền Nam trước 1975 trong đó có tôi.

 

Nhà thơ Phạm Ngọc Lư, còn có bút hiệu khác là Phạm Triều Nghi, sinh năm 1946 (Bính Tuất) ở Vinh Xuân, Huyện Phú Vang, Tỉnh Thừa Thiên. Ngay từ thuở ấu thơ, Phạm Ngọc Lư đã được cha và người bác truyền dạy chữ Hán.

Ông là cựu học sinh Quốc Học, sinh viên Viện Hán học và Ðại học Văn Khoa Huế. Sau khi tốt nghiệp sư phạm Qui Nhơn, ông về dạy học ở Tuy Hòa. Ông nhập ngũ khóa 5/68 Sĩ quan trừ bị Thủ Ðức. Sau 9 tuần ở quân trường, ông lại được biệt phái trở về ngành giáo dục. Bắt đầu viết năm học đệ tứ. Có bài trên các nguyệt san, tạp chí Nghệ Thuật, Văn, Bách Khoa, Trình Bày, Khởi Hành, Ý Thức, Tuổi Ngọc…

Sau năm 1975, Phạm Ngọc Lư bỏ nghề dạy học. Từ đây, hoàn cảnh, xã hội đã đẩy Phạm Ngọc Lư phiêu bạt nhiều nơi, có những lúc cuộc sống, tâm hồn tuyệt vọng, tưởng chừng ông đã đoạn tuyệt với thi ca. Nhưng rồi chính nó lại là điểm tựa, giúp ông vượt qua những đắng cay, tủi nhục ấy. Và Ðà Nẵng mới là nơi hội tụ, điểm dừng chân cuối cùng, ông qua đời vào ngày 26 tháng 5, 2017, thọ 72 tuổi sau một cơn bạo bệnh.

Tác Phẩm đã xuất bản:

– ĐAN TÂM (Thư Ấn quán 2004)

– MÂY NỔI (Thư Ấn Quán 2007)

– SỢI KHÓI BAY VÒNG (Thư Ấn Quán 2016)

Ngay khi nghe tin nhà thơ Phạm Ngọc Lư vừa mất, tôi có viết mấy câu thơ để tiễn đưa anh, khi đọc lại vẫn còn thấy buồn và ngậm ngùi:

Ừ có lẽ lần nầy anh đi thật

Trút áo phong trần bỏ lại cố hương

Một thuở Biên Cương Hành mù khói lửa

Giữa cuộc đời nầy ai còn giữ được ĐAN TÂM?

 

b- Tiếng thơ thời tao loạn trải qua bao dâu bể đời người:

 

Đan Tâm là tập thơ do chính tác giả thực hiện tháng 01-2014, sau nhiều năm phong bút hay chỉ viết một hai bài thơ những lúc tâm trạng cần giải tỏa ẩn ứchất chứa trong lòng, tập thơ gồm những bài thơ tác giả viết trước 1975 đăng rải rác trên một số báo, tạp chí văn chương lúc bấy giờ và một số bài thơ khác in dấu chân lưu lạc của anh sau ngày đất nước hòa bình chỉ để gởi tặng những bằng hữu đọc cho vui, sau đó đượcÝ Thức in lại tháng 04-2014, Thư Ấn Quán – Hoa Kỳ của nhà văn Trần Hoài Thư in lại tháng 11-2004, tái bản lần thứ nhất tháng 7-2007 tất cả cũng chỉ để tặng bạn bè thân hữu. Trong lần in nầy Thư Ấn Quán cũng nói rõ thêm có một số bài thơ trong tập nầy trước đây đã đăng trên các tạp chí văn nghệ hoặc gởi cho các bạn bè đọc chơi nhưng khi thực hiện bản thảo để in thành sách có thay đổi vài ba từ hoặc thêm bớt đôi ba câu với mong ước câu thơ sẽ đẹp, bài thơ sẽ hàm xúc và hoàn chỉnh hơn, nói như thế người đọc ngầm hiểu là các bài thơ trong tập Đan Tâm nầy là kết quả cuối cùng còn các bản thảo trước không còn chính xác nữa.

Trong lời mở cho lần tái bản trên Thư Ấn Quán, nhà văn Trần Hoài Thư và Phạm Văn Nhàn có nhận định: “…Công trình nầy như là tấm lòng rất trân trọng của nhóm chủ trương về một người bạn văn chương cùng thời còn sống ở trong nước và cũng nói lên chủ trương của chúng tôi đã theo đuổi hơn ba năm qua: xuất bản những tác phẩm của những cây bút cũ miền Nam đang âm thầm làm việc, để chứng tỏ nền văn học Miền Nam vẫn không bao giờ bị chết”.

Đọc lại tập thơ Đan Tâm là chùng ta đang từng bước tìm về những ẩn khuất trong tâm hồn thơ Phạm Ngọc Lư, một thời mà nó gói gọn trong hai câu lục bát như lời đề từ của tập thơ:

      Ngàn sau hồn chữ rêu phong

   Miên man thiên địa...tấc lòng du du

Làm chúng ta nhớ đến bài Thuật Hoài của Đặng Dung có mấy câu thơ sau:

  Thế sự du du nại lão hà,

 Vô cùng thiên địa nhập hàm ca…

Phải chăng hồn thơ của Phạm Ngọc Lư cũng lãng đãng khói sương mênh mông cùng đất trời chăng?

Mở đầu tập thơ là bài Đất Trích”, ta cũng có thể xem đây là bài thơ mở đầu cho cuộc đời đầy lận đận của Phạm Ngọc Lư khi rời trường sư phạm đi dạy học: Người thầy giáo trê xứ Huế ấy vào dạy học ở Củng Sơn, một nhiệm sở ít ai dám đến sống, làm việc, heo hút, nằm dựa lưng vào dãy Trường Sơn cách Tuy Hòa khoảng ba mươi cây số:

   Bốn phía rừng xanh màu nước độc
          Đông tây nam bắc núi chận đường
         Một lũng đất bằng khu chén nhỏ
         Trói chân ta vào chân Trường Sơn 
Thời đó, con đường từ Củng Sơn xuống Tuy Hòa chỉ là con đường độc đạo, đầy bom mìn. Chiến tranh đang hồi ác liệt, thầy giáo trẻ Phạm Ngọc Lư chỉ còn biết gậm nhấm nỗi buồn sau những buổi lên lớp:

   Bó đời ta nửa manh chiếu rách
          Đêm nằm mộng lớn nuốt mộng con
          …..
          Nằm chi đây, thân tàn đất trích
          Chờ ai đây, đói lả chết mòn.

Bài “Bên sông” theo tôi cũng là cái cớ, nguồn cơn khơi đi sự quạnh quẽ, một nơi xa hút bãi bờ không còn níu giữ được mà thôi: “Với người xưa ấy/ Đã khói sương che/ Chút tình xa ngái/ Đã cách bến bờ/ Biết lòng không đậu/ Trông chi thuyền về…”.

Biên Cương Hành là bài thơ tiêu biểu trong tập thơ như một điểm nhấn tuyệt vời. Tôi đã đọc bài thơ nầy in trên tạp chí Văn năm 1972 khi còn là sinh viên sư phạm cùng với bài Cố Lý Hành. Bài thơ viết về chiến tranh ngày càng trở nên khốc liệt hơn bao giờ hết ở miền Nam, bài thơ nhanh chóng trở thành nổi tiếng được nhiều người yêu thích vì tính thời sự và sự nhân bản của nó. Rất nhiều nhà phê bình nhận định rất hay về bài thơ nầy nên tôi chỉ nói về cảm xúc của riêng mình, mỗi lần đọc lại bài thơ là mỗi lần tâm trạng tôi trở lại thời khắc ban đầu ấy với những câu thơ không thể nào quên, mỗi câu thơ như một ngọn cuồng phong quất vào da thịt rát bỏng, mỗi câu thơ như còn tanh mùi máu của chiến trường vừa tàn lui:

Biên cương biên cương chào biên cương

Chào núi cao rừng thẳm nhiễu nhương

Máu đã nuôi rừng xanh xanh ngắt

Núi chập chùng như dãy mồ chôn

…..

Chiến trường ném binh như vãi đậu

Đoàn quân ma bay khắp bốn phương

Lớp lớp chồm lên đè bẹp núi

Núi mang cao điểm ngút oan hờn

…..

Thôi em, còn chi ta mà đợi
        Ngày về: thân cạn máu khô xương
        Ngày về: hôn lễ hay tang lễ
        Hề chi! buổi chinh chiến tang thương
        Hề chi! kiếp cây rừng đá núi
        Nghìn năm hồn quanh quẩn biên cương…

Hình ảnh về đứa con mới sinh đã mất cũng là một nỗi đau quá lớn mà Phạm Ngọc Lư cố nén vào lòng kéo dài suốt một thời gian dài:

Hồn nhiên bao tiếng khóc cười

Tan vào lòng đất thắm tưới linh hồn

Hòa vào màu cỏ xanh non

Bay vào mây khói chiều hôm quê nhà

…..

Nằm im giữa trái tim ta:

Nhỏ nhoi hạt bụi xưa là Các Khuê!

(Nhỏ nhoi hạt bụi)

Nỗi cô quạnh đến rợn người khi ngày về làng cũ mới thấy hết sự bẽ bang làm tan nát lòng người:

Có biết ta về không cố lý?

Mười năm chưa gặp mặt xóm làng

Sao phên giậu nghiêng đầu câm nín

Rơm rạ làm thinh chẳng hỏi han

Cổng khép rào vây vườn cỏ dại

Tường xiêu mái rách bóng nhà hoang

…..

Ai trong muôn dặm không về nữa

Cố lý mười năm mộng bẽ bàng

Cố lý mười năm ngày trở lại

Như ngày Lưu Nguyễn xuống trần gian!

(Cố lý hành)

Trong bài Làng cũ, tâm trạng càng thêm lạc lõng chơ vư biết chừng nào, Có ai hiểu được nỗi lòng của nhà thơ trước cảnh đổi thay dâu bể không nhỉ?

Gió quét Tam Giang thuyền lụy sóng

Mây xô Bạch Mã núi ôm trời

Tần ngần ngắm lại lòng ao cũ

Xào xạc hồn quê lá trúc rơi…..

Có lẽ do từ nhỏ được học chữ Hán và tiếp cận rất sớm với văn học cổ nên ảnh hưởng khá lớn đến quá trình sáng tác thơ văn của Phạm Ngọc Lư, chúng ta dễ nhận ra những từ Hán Việt trong các bài như Thuyền quyên, Thiết mã ca, Túy hoài, Lưu biệt,  Trường dạ khúc, Tuy Hòa tái ngộ… chính điều đó làm thơ ông như lạc giữa mộng và thực, lúc mơ hồ sương khói, lúc bang hoàng chua xót, lúc như tiếng vạc lẻ loi trong đêm trường, nỗi cô đơn đến tận cùng.

Khi gởi gầm lòng mình cùng Thúy Kiều, phải chăng tác giả muốn nói với chính mình:

Mười lăm năm nhớ không Kiều

Phong sương vung vãi muối tiêu khắp đầu

Nát đời anh giữa bể dâu

Nón rơm áo cỏ mày râu ngậm hờn

(Tái ngộ Thúy Kiều)

Nỗi ngậm ngùi về một kiếp người:

nhìn ra sông.. sông bồi hồi

ba mươi năm nữa… ai ngồi nơi đây?

(Ba Mươi Năm)

Nếu chúng ta chịu khó đọc thêm  những lời tâm sự của Phạm Ngọc Lư gởi bạn bè, chúng ta sẽ hiểu thêm được tình cảm nỗi lòng của nhà thơ gởi gấm qua từng chữ từng câu thơ cua anh hơn: - Trong một lá thư của Phạm Ngọc Lư gởi cho nhà thơ Lãm Thúy: “...11 giờ đêm hôm kia, mở computer sau ba bốn ngày bỏ lửng, trong năm bảy cái mail linh tinh có thư Thúy, lòng khấp khởi mừng, nhưng rồi bất ngờ… thư anh, nhận từ hồi giáp Tết / bởi lòng buồn chẳng muốn hồi âm / từ mất mẹ thấy đời cũng hết / não nề trong cuộc sống lặng thầm !…

Buồn và buồn. Miên man. Chơi vơi. Một giờ sáng rồi 2 giờ sáng vẫn không chợp mắt được, bốn bề thinh lặng, chốc chốc gióng lên một hồi gió bấc vun vút ngang mái nhà thấp ngỡ như tiếng rượt đuổi của Thinh Không. Lồm cồm ngồi dậy, thắp đèn, không hiểu sao lại bước ra bàn thờ đốt nhang, lặng người nhìn ảnh cha mẹ rồi nhẩm đọc những câu thơ trên bài vị của Phạm Các Khuê (đứa con gái đầu lòng mất khi chưa đầy một tuổi).

“Tôi là đứa con bất hiếu, trôi dạt cùng bể dâu lịch sử, hành phương Nam cầu thực, ròng rã 12 năm bỏ mẹ một mình ở quê làng nhờ các chị chăm sóc. 12 năm đục ngầu 12 bến nước, năm 1994, tôi mới quy hồi cố xứ với tâm trạng ê chề (đã bày tỏ trong bài hành Trở về Phá Tam Giang) nhưng rồi đành chọn Đà Nẵng ngụ cư, nghĩa là vẫn không thể gần gũi sớm hôm bên mẹ già và quê cũ.

Lòng tôi cứ bàng hoàng xót xa. Không thể không nghĩ đến đời mình với những mất mát tan nát triền miên, 37 năm qua tôi vẫn lặng lẽ khóc mình, những tiếng khóc vô thanh vô lệ, vẫn tôi và nước mắt dìu nhau / bơi qua Bể Khổ muôn màu nhấp nhô để “đề thơ trước mộ” và hình dung đến ngày về lại Nghìn Trùng.

                               Cứ nghĩ đến khôn cầm giọt lệ

                               Nói thêm đau, không nói cũng buồn

Nhưng “nỗi đau xót có người bày tỏ / khi nói ra lòng sẽ nguôi ngoai”.

Từ đó, rất xúc động khi Thúy bất ngờ “gặp” tôi để bày tỏ nỗi buồn của mình. Dù xa xôi muôn dặm, dù chưa một lần gặp mặt nhưng chắc chắn rồi, ta vẫn hiểu lòng nhau.

Trong một bài viết về Phạm Ngọc Lư, nhà văn Nguyễn Lệ Uyên cũng cho biết thấy rõ tâm trạng đầy bất trắc của nhà thơ: “ Cách đây 15 năm, từ Đà Nẵng Lư gửi thư cho tôi, có đoạn: “Theo tôi, nhà thơ=lãng mạn+cô đơn+bi thương+kiêu hãnh, trong đó “cô đơn” là thuộc tính bi thảm nhất. Chính trong cái cô đơn cùng cực, tôi thấy mình chết, ra đi và đã viết:

Tâm hồn bật một tiếng kêu

Vỡ ra lênh láng giữa chiều tang thương

Âm ba đồng vọng mười phương

Có ai thiên cổ đoạn trường hồi âm?

Tay ai nâng nhẹ phù thân?

Dìu tôi đi giữa phù trầm khổ đau

Tôi và nước mắt dìu nhau

Bơi qua bể khổ muôn màu nhấp nhô

Tôi và cát bụi ngu ngơ

Bay quanh trời đất đợi giờ tương sinh” (thư riêng đề ngày 27.10.2002).

 

 3-NHỮNG NHẬN XÉT VỀ THƠ PHẠM NGỌC LƯ:

 

Tôi có một thói quen khi viết cảm nhận về một nhà thơ, nhà văn mình quan tâm hay yêu thích, ngoài việc chọn đọc các tác phẩm tiêu biểu của họ, ngoài ra tôi còn đọc thêm các bài viết của các tác giả khác viết về họ và rất thích thú khi đọc được những ý tưởng hay sâu sắc mà mình chưa chạm tới được và rút ra được những vết son trong hành trình đi tìm cái đẹp trong văn chương. Xin được trích dẫn một số đoạn văn mà tôi tâm đắc để bạn đọc cùng thưởng lãm nhé:

      Nhà thơ Phan Xuân Sinh ví anh như một kẻ sĩ sinh bất phùng thời: “…Những ngày ở Đà Nẵng, chúng tôi hay rủ nhau đi uống cà phê, chính những lúc nầy tôi hiểu thêm về con người của anh. Anh là một người sống lặng lẽ, thâm trầm. Ít giao thiệp với ai, nhưng khi gặp anh em văn nghệ anh rất hết lòng với anh em. Tôi biết gia đình anh đang gặp khó khăn nhưng anh không bao giờ tỏ bày cùng ai, ôm trong lòng những u uất cho nên trông thấy anh càng tôi nghiệp, với vóc dáng ốm yếu, xanh xao, càng tang thương hơn. Tôi nói với anh bây giờ mình lớn tuổi gặp những bất trắc mình nên lướt qua đừng để trong lòng. Vì mang trong người thứ nầy mình sẽ suy sụp ngay, gượng dậy không nổi. Nói thì nói vậy chứ làm sao dễ dàng thoát được, nó cứ bám sát, không làm sao dứt ra được.

     Thơ phảng phất thơ Đường như Vũ Hoàng Chương, hình như suốt cuộc đời thơ của chàng họ Phạm chìm đắm trong khói sương Đường thi, ngay cả tựa nhiều bài trong tập thơ Đan Tâm anh dùng nhiều từ Hán Việt: Biên cương hành, Cố lý hành, Tái ngộ Thúy Kiều, Thuyền Quyên, Thiết mã ca, Lưu biệt, Ngũ thập thất tự tình, Thu niệm, Phù dung...

Mơ màng một bóng hoàng oanh

Bay qua vườn mộng hóa thành hoàng uyên

Bồng bềnh một dáng thuyền quyên

Rong chơi hoàng hạc từ thiên cổ về

 

Một trời mây mỏi khói mê

Tương tư bóng hạc nảo nề lầu hoang

Có ai thoát áo thu vàng

Bay lên tơ lụa mơ màng bóng hoa

(Chim mộng)

Nhà văn Cung Tích Biền khi viết về Phạm Ngọc Lư có nhận xét: “…Phạm Ngọc Lư khá điềm tĩnh trong hành trình sáng tác của mình, tuy sâu trong tâm khảm, từ biển rộng tâm linh, Lư vẫn cháy bỏng với những khắc khoải, tư duy. Trong bao năm Lư không chạy theo những trào lưu, trường phái, những hào nhoáng ồn ào của thị hiếu. Không làm con thiêu thân để chết non, tàn mùa, theo những cám dỗ tức thời. Thơ Lư hình thức là mẫu mực, cổ điển. Vì ta cứ đủng đỉnh cái Riêng mình. Cái bình cổ sống rất lâu. Chính ở điểm này Lư thành công. Nói được rất nhiều trong biểu hiện điều Muốn Nói. Không cầu kỳ. Không đánh bóng ồn ào mặt ngoài bởi ngôn ngữ rỗng.(Nghĩ về nhà thơ Phạm Ngọc Lư)”.

Còn với KHUẤT ĐẨU, nhà văn hình như thấu hiểu nỗi đau giấu kín trong lòng của nhà thơ khi trào ra trên từng con chữ còn rướm máu: “…Chính vì thương ngày xưa không tuổi/ ôm mối tình không tên, nhờ mối tình với Nàng Thơ ấy mà anh đã sống sót qua những năm tháng ở Củng Sơn, ở phương Nam nắng khổ mưa đau. Nàng Thơ không còn lửng thửng giữa thành cũ rêu phong,  không phơi tấm thân ngà ngọc trên sông Hương mà cùng anh mươi lít gạo trộn vài cân muối/ nấu với tình em ăn vẫn ngon. Nàng cùng anh xé toạc đất tanh mùi máu mà kêu thét lên ở biên cương, rồi cùng anh xuôi Nam lại lộn về cố lý, qua phá Tam Giang rồi dừng lại trên bến nước thứ mười ba là sông Hàn. Nhờ có nàng mà mộng con mộng lớn dẫu tan tành thì cũng hãy còn bút mực đan thanh tươi màu. Bút mực ấy chấm vào tấm lòng son nên dù mai sau thơ anh có nằm chết trần truồng thì tôi vẫn tin, trong trái tim của bạn bè vẫn còn nhỏ nhoi hạt bụi tên là Đan Tâm.(Đọc Đan Tâm của Phạm Ngọc Lư)”

Còn Du Tử Lê thì nhấn nha chậm rãi qua những bài viết đăng nhiều kỳ trên trang web văn học của riêng ông: “…Phạm Ngọc Lư xuất hiện trên thi đàn rất sớm. Từ năm 17 tuổi (1963) ông bắt đầu tập viết và vài ba năm sau đó đã có thơ và truyện đăng trên các báo, nguyệt san: Nghệ Thuật, Văn, Khởi Hành, Bách Khoa, Ý Thức, Tuổi Ngọc… Thơ Phạm Ngọc Lư mang đậm chất cổ thi và sử dụng nhiều điển tích cũng như từ ngữ Hán Việt. Do vậy, thơ ông cổ kính sang trọng, nhưng khi đọc lên tưởng chừng rất dễ vỡ…
“…Quả, khi đọc, nghiên cứu Phạm Ngọc Lư, đôi khi ta bắt gặp một vài thủ pháp nghệ thuật sử dụng hình ảnh, câu từ khá tương đồng với cố thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Bởi, có lẽ hai thi sĩ đều có điểm chung, học chữ Hán và có nền tảng cổ văn khá vững, ngay từ thuở thiếu thời chăng? Tuy là vậy, nhưng tư tưởng, hồn vía trong thơ lại có những khúc rẽ rất khác nhau.…Sinh ra và lớn lên trong giai đoạn đất nước không có một ngày bình yên, do vậy Phạm Ngọc Lư thấm được nỗi đau và sự mất mát trong chiến tranh và nỗi thống khổ sau cuộc chiến. Là nhà giáo, không phải cầm súng nơi chiến trường, nhưng với ngòi bút của mình, người thi sĩ trẻ ấy đã bóc trần sự thật của chiến tranh. Có thể nói, Biên Cương Hành là một trong những bài thơ hay nhất viết về chiến tranh, không chỉ của thi ca miền Nam, mà cho cả nền thi ca đất Việt. Đa số những bài viết về đề tài chiến tranh, hay cổ động chiến tranh thường có giá trị nhất thời. Nhưng Biên Cương Hành lại có sức sống dẻo dai và sự lan tỏa mạnh mẽ, bởi ngoài sự thật tàn khốc của chiến tranh, nó còn chứa đựng giá trị nghệ thuật cao…”.
(Từ thơ thể loại “Hành”, tới thi ca một thời của Phạm Ngc Lư – Du Tử Lê)

 Nhận xét của nhà phê bình Đỗ Trường(Đức) có tính khái quát hơn: “… Thông thường, một nhà thơ tài năng, dù là cây cao bóng cả, có nhiều bài thơ hay nhưng cũng không thiếu những bài thơ dở. Đặc biệt trong tập Đan Tâm của Phạm Ngọc Lư, đã đọc nhiều lần, quả thật, tôi không tìm ra bài thơ nào dở hoặc quá dở. Có lẽ, do tính cẩn thận và ông viết rất ít, nên chưng lọc được tinh cốt chăng?.

Và cũng như nhà thơ Vũ Hoàng Chương do dùng nhiều từ cổ Hán Việt cũng như điển tích, cho nên thơ của Phạm Ngọc Lư thường khó nhận được sự chia xẻ, đồng cảm trong giới bình dân.

Nói thơ ông kén người đọc là như vậy.” (Phạm Ngọc Lư, người vẫn giữ lửa cho nền văn học miền Nam)

      Riêng nhà thơ Hoàng Xuân Sơn(Canada) khi viết về Biên Cương Hành của Phạm Ngọc Lư đã khắc khoải một tâm trạng đớn đau khôn nguôi – một dư chấn tâm lý - mà thế hệ thanh niên miền Nam chúng tôi thời đó đã từng trải qua: “…Tôi đã cùng tác giả Hành Biên Cương đến vùng biên cương cuối cùng, nhưng vẫn không có một địa danh cụ thể nào trong suốt hành trình này. Với riêng tôi Biên Cương trong Hành Biên cương phải chăng là những địa danh lưu dấu tích suốt bốn mươi năm tiếng súng ngưng vẫn còn đó. Một dòng Bến Hải “Cả dòng sông là một nghĩa trang trôi”, Một thành cổ Quảng Trị, một Đại lộ kinh hoàng, Một Khe Sanh, một Hướng Hóa, một đường 9 Nam Lào, một lộ máu số 7, một ngôi mộ 3000 người ở An Lộc Bình Long, hay tuyến lửa 1C sắt còn bị nung chảy bởi bom đạn…”

Ðiển hình, nhà văn Nguyễn Lệ Uyên, trong bài “Ðọc thơ Phạm Ngọc Lư / Thơ như một định mệnh” ghi nhận:

“…Với tôi, Lư là người bạn thân thiết từ cuối thập niên 60 và chữ nghĩa của Lư là ‘người tình’ đích thực của tôi kể từ khi tôi đọc một loạt truyện ngắn của anh đăng trên Văn, Bách Khoa… Những nhân vật trong truyện đã mang không khí chiến tranh đi ngao du cùng trời cuối đất, khi thì dưới một mái trường quê, khi thì một làng ven biển, lúc thì một thị trấn nhỏ miền núi, bị cô lập như ‘đất trích’… Trong suốt thời gian nầy tôi chưa hề thấy anh làm thơ như những người cầm bút khác cùng thời.

“Mãi tới cuối năm 1972, tôi từ Sài Gòn về từ giã cha mẹ và các em để ‘xếp bút nghiên…’, buổi tối ngồi uống chén rượu lạt cùng với các bạn văn trước lúc chia tay, giữa chếnh choáng men say thế sự, giọng Lư hốt nhiên vang lên, nấc nghẹn:

“Biên cương biên cương chào biên cương
        Chào núi rừng thăm thẳm nhiễu nhương
        …
     “Khu chiến ngày tràn lan lửa dậy
     Ðá Vọng Phu mọc khắp biên cương
       …
   “Ðây biên cương ghê thay biên cương
   Tử khí bốc lên dày như sương…
   (Biên Cương Hành)

 

Nhà thơ NHƯ KHÔNG lại so sánh để làm nổi bật sự khác biệt thơ Phạm Ngọc Lư : “…Khác với một Nguyễn Bắc Sơn tưng tửng trong chiến trận,Phạm sững sờ với sự khốc liệt và quy mô của chiến tranh,anh không thuộc tạng người “ sống “ được với những chết chóc và đổ nát, với đau thương và sự hủy hoại mà chiến tranh đem lại.Tâm hồn và cả thể tạng mong manh của anh cùng với kiến thức Hán học mà anh thừa hưởng từ khi còn bé với gia đình không dung nạp nổi những thứ đó. Anh là con người của Đường thi, của Tỳ Bà Hành,của Tương Tiến Tửu, của tiếng chuông chùa Hàn San trong " Phong Kiều Dạ Bạc " của nhà thơ Trương Kế. Ở Phạm Ngọc Lư là cái khuôn mẫu khiêm cung của người quân tử, của những khuôn vàng thước ngọc từ Khổng và Lão, từ những câu thơ hụt hẫng của Thôi Hiệu.Và anh choáng váng với cái môi trường mà anh buộc phải bước chân vào:

“ Biên cương biên cương chào biên cương

Chào núi cao rừng thẳm nhiễu nhương

Máu đã nuôi rừng xanh xanh ngắt

Núi chập chùng như những mồ chôn

…..

Biên cương biên cương đi biền biệt

Chưa hết thanh xuân đã cùng đường “

Ai cũng có cái nhìn riêng về thơ của Phạm Ngọc Lư và ta tôn trọng họ dù có thể những nhận định ấy chưa thật sự làm chúng ta hài lòng hay thích thú nhưng có hề gì. Trong vườn hoa bao giờ cũng có các loài hoa khác nhau, màu sắc hương thơm cũng khác nhau, thế thôi.

4-    THAY LỜI KẾT:

Tôi còn nhớ có một thời gian trước khi đi xa, nhà thơ Phạm Ngọc Lư có tham gia sinh hoạt trên fb, lúc nầy anh chưa ngã bệnh và tôi kết nối được với anh cũng trong giai đoạn nầy. Tôi có gởi tặng anh hai tập thơ và anh hứa sẽ đọc kỷ. Trên fb của anh ngày đó gần như không đăng bài mới, thỉnh thoảng anh đưa lên một bài thơ cũ trong hai tập thơ Đan Tâm hay Mây Nổi mà thôi, có lẽ để cho vui và có dịp gặp được bạn bè văn chương. Một thời gian sau qua thông tin bạn bè văn nghệ tôi biết anh bệnh và đang được điều trị. Có lần một bạn thơ khá trẻ nói với anh đã đem tập thơ Đan Tâm về Hà Nội anh trả lời một cách hóm hỉnh: Vậy là lần đầu tiên Đan Tâm vượt vĩ tuyến 17 ra Bắc rồi. Tôi nghĩ anh vui vì điều đó.

Suốt hành trinh trên dòng sông thơ đầy thác ghềnh, anh sáng tác không nhiều và chưa từng tự mình đứng ra in  thành tác phẩm riêng, tất cả đều do bạn bè yêu quí anh lo liệu nhưng không nhất thiết phải in hay sáng tác nhiều mới được nhiều người biết, chỉ cần một bài thơ như “Biên Cương Hành” cũng đưa tên anh vào văn học sử nước nhà rồi. Đối với tôi thơ anh luôn đứng ở một cõi trời riêng mãi mãi là một “BÓNG TRĂNG CÔ QUẠNH TRÊN DẶM TRƯỜNG THIÊN LÝ”.

Sài Gòn, bên bờ Kênh Tẻ, cuối tháng 2-2025

NGUYỄN AN BÌNH

_______________________

Tham khảo:

1- Thư Quán Bản Thảo số 70 – chủ đề Phạm Ngọc Lư

2= Phạm Ngọc Lư, một đời tài hoa của Phạm Cao Hoàng

3- Phạm Ngọc Lư, người vẫn giữ lửa cho nền văn học miền Nam – Đỗ Trường

4- Nghĩ về nhà thơ Phạm Ngọc Lư – Cung Tích Biền

5- Đọc Đan Tâm của Phạm Ngọc Lư – Khuất Đẩu

6- Nhớ Phạm Ngọc Lư – Nguyễn Lệ uyên

7- Phạm Ngọc Lư, cây sậy phương đông – Như Không

8- Từ thơ thể loại “Hành”, tới thi ca một thời của Phạm Ngọc Lư – Du Tử Lê

9- Phạm Ngọc Lư, người đi trước vận mênh – Phan Xuân Sinh