TẢN VĂN DỰ THI "HÀO KHÍ MIỀN ĐỒNG" TRÊN BÁO THANH NIÊN ĐÃ QUA VÒNG GỞI XE NGÀY 28/11/2023
MÃ ĐÀ VÙNG ĐẤT ĐẦY HUYỀN THOẠI
https://thanhnien.vn/ma-da-vung-dat-day-huyen-thoai-185231127133021547.htm
Tản văn
dự thi HÀO KHÍ MIỀN ĐÔNG 2023 Báo Thanh Niên
MÃ ĐÀ VÙNG ĐẤT ĐẦY HUYỀN THOẠI
*NGUYỄN AN BÌNH
Mã Đà cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 130 km về phía bắc, là một xã thuộc
huyện Vĩnh Cửu tỉnh Đồng Nai, từng là chiến khu Đ, một trong những căn cứ cách mạng
quan trọng nhất của miền Đông Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ. Thời điểm thích hợp nhất để khám phá Mã Đà từ khoảng tháng 6 đến tháng
10. Đây là khoảng thời gian thời tiết khá khô ráo, mát mẻ, ta thỏa thích khám
phá những điều thú vị về miền sơn cước nầy.
Chúng tôi về Mã Đà vào một sớm đẹp trời, rừng Mã Đà bừng sáng lạ kỳ, đẹp lấp
lánh với những vạt nắng vàng ươm xiên qua từng kẽ lá xóa tan lớp sương mù mỏng
trong tiếng gió vi vu, tiếng chim rộn ràng. “Mã Đà Sơn Cước” hiện ra với màu
xanh ngút ngàn, căng tràn sức sống. Thảm thực vật nhiều tầng, những tán cổ thụ
bằng lăng, gỗ đỏ, dầu... như mũi tên chọc thẳng lên nền trời xanh biếc, đàn bướm
đầy màu sắc bay lượn nhởn nhơ bên con suối cạn... Lần đầu tiên bạn thấy lá
trung quân chiến sĩ thường dùng lợp nhà vì tính khó bắt lửa, biết đến già làng
Năm Nỗi người Chơ Ro một lòng đi theo cách mạng, thưởng ngoạn các món ăn dân dã,
tham quan di tích lịch sử, chuyến đi Mã Đà sẽ cho ta cảm giác trải nghiệm đầy
thú vị.
2. “MÃ ĐÀ SƠN CƯỚC ANH HÙNG TẬN”
Đến với Mã Đà , tôi và bạn còn hiểu thêm câu truyền tụng chết người trong dân
gian về vùng đất hoang sơ đầy bí hiểm của miền Đông Nam Bộ “Mã Đà sơn cước anh hùng tận”. Xưa Mã Đà là giang sơn của các bộ tộc
ít người S’tiêng, Châu Mạ, nơi được xem là cõi “ma thiêng nước độc” với những ai mang tham vọng mạo hiểm vào “miền
đất chết” để làm giàu. Nơi có những dòng suối chảy xiết đầy hung hãn vào mùa lũ,
nơi mầm sốt rét kinh niên và bất trị đã cướp đi sinh mạng của biết bao người
khi lạc vào miền đất chết, nơi có những vạt rừng mênh mông huyền bí không dấu
chân người, sào huyệt các loài thú hoang dã dữ tợn... Mã Đà là cánh rừng gần
như bất khả xâm phạm, con người trở nên nhỏ bé và bất lực trước thiên nhiên đầy
hoang sơ và bí hiểm.
Nhưng biết đâu trong hai cuộc kháng chiến, Chiến sĩ ta đã lợi dụng cái hiểm
trở đó thành lợi thế cách mạng, thổi phồng sự huyền bí của Mã Đà ngăn bước chân
kẻ thù và những ai muốn tiến vào xâm nhập phải chùn bước và sợ hải bảo vệ an toàn
chiến khu Đ thì sao nhỉ?
Đến Mã Đà, chúng tôi được anh Nguyễn Văn Trí, Trạm phó Trạm Kiểm lâm Trung ương Cục hướng dẫn đến thắp hương khu nghĩa trang liệt sĩ Mã Đà. Khu nghĩa trang này rộng khoảng 2,5 ha. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tại đây có Bệnh xá K72. Thương bệnh binh ở khu vực Chiến khu Đ đều đưa về đây điều trị. Những thương bệnh binh, trong đó nhiều người bị sốt rét ác tính không qua khỏi đều an táng tại nghĩa trang Mã Đà. Giọng anh trầm tư: “Dưới bóng cây đa cổ thụ nầy là đền thờ các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh tại Mã Đà chiến khu Đ . Do phần lớn các liệt sĩ là người miền Bắc nên đền thơ được xây theo kiến trúc của Chùa Một Cột, hình ảnh tượng trưng cho quê hương của các liệt sĩ. Người dân ở đây còn gọi là nghĩa trang không bia mộ. Năm 2004 trong lúc trùng tu tôn tạo di tích căn cứ Trung ương cục miền Nam đã phát hiện tại đây có nhiều hài cốt liệt sĩ, sau khi xác minh tỉnh Đồng Nai đã cho xây dựng nghĩa trang liệt sĩ tại Mã Đà với khần lớn những ngôi mộ không tên. Có 70 ngôi mộ chỉ có 5 ngôi mộ có tên, hằng ngày được vệ sinh và hương khói.”
Bài thơ “Thăm viếng nghĩa trang liệt sĩ” của tác giả Hoa
Hải Đường khắc trên phiến đá lớn viết về các anh như nói hộ nỗi lòng chúng tôi: “Hàng bia dài lòng đau xót biết bao. Man mác
nhớ về một thời máu lửa. Đất nước mạnh giàu các anh không còn nữa! Bước chân tôi
chầm chậm chẳng muốn về! Các anh ơi! Nơi nầy cũng là quê. Hãy yên nghĩ giữa thắm
màu hoa lá! Gió ngọt ngào hát ru anh ngủ. Đậm nghĩa tình từ khách đủ muôn phương.”
Trong tiếng xào xạc của cây rừng, tiếng suối róc rách từ xa, tai tôi bỗng
nghe ngân nga khúc hát “Trị An âm vang mùa xuân” của nhạc sĩ Tôn Thất Lập viết
năm nào:
“Về lại chiến
khu ghé qua Thường Lam hay qua Lạc An
Một trời nước
non Tân Uyên chờ ai, sương bay Mã Đà
Dòng điện sáng
lên cháy trong lòng ta xóa bao nhọc nhằn
Lặng nghe nước
reo âm vang mùa xuân ước mơ rực sáng
Dòng diện thắp
lên sáng cho tình em, sáng cho ngày mai.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét